TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MỸ THO, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 91/2022/HS-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 9 năm 2022 tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 73/2022/HSST ngày 14 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 84/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn B, sinh năm 1978 tại tỉnh Tiền Giang; tên gọi khác: B lùn; Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: số đường A, phường B, TP M, TG; Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 2/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T (1949, chết) và bà Lê Thị T (1950, chết); Bị cáo chưa có vợ, con.
Tiền sự: 01 lần. Ngày 19/10/2020 bị Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho ra quyết định áp dụng Bện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng (Quyết định số 71/QĐ-TA ), chấp hành xong ngày 12/02/2022.
Tiền án: 03 lần;
+Ngày 14/02/2001 bị Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xử phạt 07 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân” và “Cướp tài sản công dân” (Bản án số 13/HSST). Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/10/2005;
+Ngày 29/5/2006 bị Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho xử phạt 07 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” (Bản án số 78/2006/HSST). Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/12/2011;
+Ngày 06/11/2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 164/2012/HSST với tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” theo điểm c khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009). Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/6/2015. Do bị cáo chưa thi hành án phí hình sự và dân sự sơ thẩm nên chưa được xóa án tích.
Nhân thân:
+ Bị Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang ra Quyết định đưa vào Trường giáo dưỡng tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai 02 lần, mỗi lần 02 năm về hành vi “Cướp giật hoặc Công nhiên chiếm đoạt tai sản của công dân” và “Trộm cắp tài sản công dân” (Quyết định số 04/QĐUB ngày 22/3/1993; Quyết định số 54/QĐUB ngày 17/6/1995);
+Ngày 18/12/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 97/2017/HSST). Bị cáo đã chấp hành xong bản án ngày 30/3/2020, đến thời điểm phạm tội thì đã đương nhiên được xóa án tích.
Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 24/5/2022, tạm giam ngày 30/5/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang . Có mặt tại phiên tòa.
*Người bị hại: Ngô Thanh K, sinh năm 1987. Có mặt Nơi cư trú: ấp M, xã N, thị xã C, TG Chỗ ở: đường A, Phường C, Tp M, TG * Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Lê Ng L, sinh năm: 1973. Có mặt Nơi cư trú: 97/4 đường E, Phường C, Tp M, TG
2/ Nguyễn Ph T, sinh năm: 1986 (xin vắng mặt) Nơi cư trú: đường D, Phường C, Tp M, TG
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn Bến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ ngày 24/5/2022, Nguyễn Văn B đi bộ ngang cửa hàng bán máy tính “Thanh Khang” địa chỉ đường A, Phường C, Tp M, tỉnh TG do anh Ngô Thanh K làm chủ, phát hiện cửa hàng không có người trông coi nên B nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. B liền đi vào bên trong lén lút lấy trộm 01 laptop nhãn hiệu Dell màu bạc để trên bàn. Sau đó, B đem laptop trộm được bán cho anh Lê Ng L với số tiền 450.000 đồng. Sau khi mua, anh Lộc bán lại cho anh Nguyễn Ph T với giá 1.100.000 đồng. Anh Ngô Thanh K phát hiện mất tài sản liền trình báo Công an Phường 4. Đến 18 giờ cùng ngày Nguyễn Văn B bị bắt giữ để điều tra cùng số tiền 450.000 đồng chưa tiêu xài.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 16/KL-HĐĐGTS ngày 26/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Mỹ Tho kết luận: Laptop màu bạc, Model:
Dell latitude 7240, core i5, ram 4G, ổ ssd 128G, màn hình 12.5 in trị giá 5.220.000 đồng.
Tại bản cáo trạng số 72/CT-VKSMT ngày 13/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang đã truy tố Nguyễn Văn B để xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự (BLHS).
*Tại phiên tòa:
-Bị cáo B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như Cáo trạng đã nêu, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm trở về làm lại từ đầu.
-Người bị hại xác định đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì. Về trách nhiệm hình sự thì yêu cầu giải quyết theo quy định pháp luật.
-Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Ng L xác định không yêu cầu bị cáo trả số tiền 450.000 đồng và cũng không yêu cầu nhận lại số tiền 450.000 đồng đã đưa cho bị cáo bị thu giữ.
-Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn B về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự; Phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, đã đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Trộm cắp tài sản”;
Về hình phạt: Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; Điều 38, Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.
Về trách nhiệm dân sự: ghi nhận bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm.
Về xử lý vật chứng: đề nghị tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 450.000 đồng thu lợi bất chính.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn B đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung cáo trạng của Viện Kiểm sát. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra thu thập được, đã được Hội đồng xét xử thẩm tra tại phiên tòa, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận: Ngày 24/5/2022, Nguyễn Văn B đã có hành vi trộm cắp của bị hại Ngô Thanh K 01 laptop, qua định giá có giá trị là 5.220.000 đồng. Bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích nay tiếp tục phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ñaõ trực tiếp xaâm haïi ñeán taøi saûn cuûa người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, gaây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự và an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật sẽ bị trừng trị nghiêm khắc nhưng chỉ vì lười lao động, có ý thức chiếm đoạt tài sản của người khác để phục vụ nhu cầu cá nhân nên bị cáo bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện tội phạm. Bị cáo có nhân thân xấu, có 03 tiền án chưa được xóa án tích và 01 tiền sự , vì vậy cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo mới đủ sức răn đe và giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt.
Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng cân nhắc về việc trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
Đối với anh Lê Ng L có mua laptop do B bán nhưng anh Lộc không Bết đó là tài sản do B phạm tội mà có, sau đó anh Lộc bán lại cho anh Nguyễn Ph T, anh Toàn cũng không Bết tài sản do phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự hai anh là đúng pháp luật.
[3] Về trách nhiệm dân sự:
Bị hại anh Ngô Thanh K đã nhận lại tài sản bị mất trộm và không có yêu cầu gì khác; anh Nguyễn Ph T đã nhận lại số tiền 1.100.000 đồng do anh Lộc trả lại; anh Lộc không yêu cầu bị cáo B trả lại số tiền 450.000 đồng nên Tòa án không xem xét.
[4] Về xử lý vật chứng:
Tiền Việt Nam 450.000 đồng, đây là tiền thu lợi bất chính từ việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng theo quy định. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, do đó các hành vi, quyết định đã thực hiện đều đúng quy định và hợp pháp.
[6] Lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
1. Về hình phạt:
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 24/5/2022.
2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 BLHS. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: số tiền 450.000 đồng được để trong 01 gói niêm phong có ký hiệu M1 có đóng dấu mộc tròn của Phòng Kỹ thuật hình sự và các chữ ký của Võ Trần Xuân Diệu và Dương Văn Huyên.
(Theo Bên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 16/9/2022)
3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, anh K, anh L có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 91/2022/HS-ST
Số hiệu: | 91/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về