Bản án về tội trộm cắp tài sản số 75/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 75/2022/HSST NGÀY 21/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 9 năm 2022 tại điểm cầu trung tâm Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình kết nối với điểm cầu thành phần tại phòng 102 trụ sở Công an huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số:

73/2022/TLST- HS ngày 18 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Vũ Thị Thu P, sinh ngày 19/6/1965. Nơi cư trú: Thôn N, xã P, huyện X, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp lao động tự do; trình độ văn hóa: 01/10; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: Đạo thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn Ph và bà Trương Thị B (đều đã chết); chồng Phạm Văn Th (đã chết) và có 01 con; tiền sự: có 01 tiền sự, ngày 04/3/2022 bị Ủy ban nhân dân xã Nam Hà, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 11/QĐ-XPHC ngày 04/3/2022; tiền án: không. Nhân thân: Ngày 15/6/1981, bị Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” tại Bản án số 11/1981/HSST; Ngày 30/7/1992 bị Tòa án nhân dân huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Hà xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” tại bản án số 38/1992/HSST; Ngày 29/9/1994 bị Tòa án nhân dân huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Hà xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” tổng hợp với 12 tháng tù đang trong thời gian hưởng án treo. Tổng hợp hình phạt chung 18 tháng tù tại bản án số 29/1994/HSST; Ngày 19/7/1999 bị Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” tại bản án số 19/1999/HSST; Ngày 12/6/2001 bị Tòa án nhân dân thị xã Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 62/2001/HSST; Ngày 22/5/2009 bị Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản tại” tại bản án số 29/2009/ HSST; Ngày 05/4/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 17/2018/HSST; Ngày 27/4/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 24/2018/HSST. Các bản án này bị cáo đều đã chấp hành xong bản án và đã được xóa án tích. Ngày 16/01/2018 bị Công an huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.000.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 07/6/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình, được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

+ Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Tiến S, Trợ giúp viên pháp lý thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Thái Bình (Có mặt).

+ Bị hại:

- Chị Trần Thị V, sinh năm 1969 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn K, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình.

- Chị Trần Nguyễn Khánh L, sinh năm 2003 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh Thái Bình - Chị Trịnh Thị T, sinh năm 1987 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn N, xã H, huyện H, tỉnh Thái Bình + Người làm chứng:

- Anh Vũ Thanh B, sinh năm 1994 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn G, xã M, huyện X, tỉnh Thái Bình.

- Ông Vũ Văn L, sinh năm 1952 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ 13, phường H, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

+ Người tham gia tố tụng khác: Ông Nguyễn Trọng H - Cán bộ Công an huyện Tiền Hải, hỗ trợ phiên tòa tại điểm cầu thành phần (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 07h30’ ngày 05/6/2022 Vũ Thị Thu P điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave anpha màu đỏ, BKS: 17K9- 2948 đi từ nhà đến chợ Huyện thuộc địa phận thôn N, xã A, huyện H, tỉnh Thái Bình mục đích để trộm cắp tài sản. P gửi xe ở cổng chợ rồi đi vào khu vực bán cá trong chợ Huyện xem có ai sơ hở thì trộm cắp tài sản, phát hiện trong túi áo khoác chống nắng của chị Trần Thị V để 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung J2 Pro màu vàng. P đi bộ lại gần dùng tay trái móc vào túi áo khoác chống nắng trộm cắp chiếc điện thoại của chị Vân rồi đi ra chỗ vắng người. P tắt nguồn chiếc điện thoại và cất giấu vào trong người rồi tiếp tục quay lại khu vực bán cá. Phát hiện trong túi áo chống nắng của chị Trần Nguyễn Khánh L có để 01 chiếc điện thoại di động Iphone XS max màu đen, P đi đến sát chị L dùng tay trái móc túi trộm cắp chiếc điện thoại rồi đi ra khu đô thị G (cạnh chợ Huyện) thì phát hiện chị Trịnh Thị T để 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Xiaomi Redmi màu xanh trong túi bên tráiáo chống nắng. P tiếp tục đi lại gần dùng tay trái móc túi áo trộm cắp chiếc điện thoại rồi đi ra cổng chợ lấy chiếc xe mô tô để về nhà. Khi về đến khu vực cổng chào xã A, huyện H, tỉnh Thái Bình, P dừng xe lấy 03 chiếc điện thoại vừa trộm cắp được ra kiểm tra, nhưng chỉ mở được chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung J2 Pro màu vàng của chị V và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS max màu đen của chị Linh. P tháo 02 sim trong 02 chiếc điện thoại này vứt ở vệ đường để tránh bị phát hiện và bị định vị. Trên đường đi về, do chiếc điện thoại nhãn hiệu Xiaomi Redmi màu xanh trộm cắp của chị Tâm có đặt mật khẩu nên P điều khiển xe mô tô mang chiếc điện thoại đến cửa hàng sửa chữa điện thoại của anh Vũ Thanh B nhờ sửa điện thoại rồi đi về nhà.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 06/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Tiền Hải kết luận: “01chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung J2 Pro màu vàng đã qua sử dụng trị giá 1.200.000 đồng; 01chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS max màu đen đã qua sử dụng trị giá 9.350.000 đồng;01chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Realme màu xanh đã qua sử dụng trị giá 1.750.000 đồng”.

Tại bản cáo trạng số: 77/CT-VKS ngày 17/8/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình truy tố Vũ Thị Thu P về tội: “ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải đã truy tố đối với Bị cáo.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố nhà nước tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo về tội danh, điều luật như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 điều 173, điểm s khoản 1 điều 51, điểm g khoản 1 điều 52, điều 50, điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Vũ Thị Thu P. Xử phạt bị cáo Vũ Thị Thu P từ 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù đến 02 (Hai) năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về trách nhiện dân sự: Không đặt ra giải quyết.

Về vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự, điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave anpha màu đỏ BKS 17K9-2948.

Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tiền Hải trả lại 01 chiếc điện thoại Sam sung J2 Pro màu vàng cho chị Trần Thị V, 01 chiếc điện thoại di động Iphone XS max màu đen cho chị Trần Nguyễn Khánh L và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Xiaomi Redmi màu xanh cho chị Trịnh Thị T.

Về án phí: Áp dụng điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ Điều 12 Nghị quyết số 326 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho Bị cáo Vũ Thị Thu P.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với Kiểm sát viên về bản luận tội. Người bào chữa cho bị cáo trình bày bản bào chữa cho bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét vụ án một cách khách quan, toàn diện cũng như nguyên nhân, điều kiện phạm tội của bị cáo để tuyên một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và thể hiện chính sách nhân đạo khoan hồng của Đảng, Nhà nước đối với người phạm tội. Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí cho Bị cáo Vũ Thị Thu P.

Kết thúc phần tranh luận bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình lo cho con bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Bị cáo, Bị hại, người làm chứng không khiếu nại hay có ý kiến gì. Nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp.

[2]. Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy tại phiên tòa bị cáo Vũ Thị Thu P đã khai nhận hành trộm cắp 03 chiếc điện thoại di động vào sáng ngày 05/6/2022. Tổng giá trị tài sản ba lần bị cáo trộm cắp là 12.300.000đồng. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án như:

- Đơn trình báo và lời khai của bị hại là chị Trần Thị V, chị Trần Nguyễn Khánh L và chị Trịnh Thị T;

- Bản kết luận định giá tài sản ngày 06/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện Tiền Hải xác định: 01chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung J2 Pro màu vàng đã qua sử dụng trị giá 1.200.000 đồng; 01chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS max màu đen đã qua sử dụng trị giá 9.350.000 đồng;01chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Realme màu xanh đã qua sử dụng trị giá 1.750.000 đồng;

- Lời khai của người làm chứng là anh Vũ Thanh B, ông Vũ Văn L.

Từ những tình tiết và chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 07h30’ ngày 05/6/2022, tại khu vực chợ Huyện thuộc địa phận thôn N, xã A và khu đô thị G, thị trấn T, huyện H, tỉnh Thái Bình. Lợi dụng sơ hở trong việc trông coi, quản lý tài sản khi đi mua hàng của các bị hại,Vũ Thị Thu P đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung J2 Pro màu vàng trị giá 1.200.000 đồng của chị Trần Thị V, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS max màu đen trị giá 9.350.000 đồng của chị Trần Nguyễn Khánh L và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Xiaomi Realme màu xanh trị giá 1.750.000 đồng của chị Trịnh Thị T mục đích mang bán lấy tiền siêu xài cá nhân. Tổng trị giá tài sản bị cáo trộm cắp là 12.300.000 đồng.

Hành vi của bị cáo đã phạm tội “ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải đã truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định ti "Trộm cắp tài sản":

"1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

……………………………………………………………………………….

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng".

[3]. Về tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội tại địa P và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

[4]. Đánh giá về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Về nhân thân, bị cáo Vũ Thị Thu P có nhân thân xấu, bị cáo có 01 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản và 08 lần bị kết án về tội trộm cắp tài sản.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng cho bị cáo: Trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự là "Phạm tội hai lần trở lên".

[5]. Về hình phạt:

[5.1]. Về hình phạt chính: Xét thấy bị cáo Vũ Thị Thu P là người trưởng thành, có đầy đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã 08 lần bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, lẽ ra sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về địa P, bị cáo phải tu chí làm ăn bằng con đường lương thiện nhưng vì lười lao động, muốn có tiền tiêu xài không bằng sức lao động chính đáng của bản thân nên bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Hành vi của bị cáo thể hiện ý thức coi thường pháp luật, vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội do bị cáo gây ra mới có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung..

[5.2]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo Vũ Thị Thu P không có việc làm ổn định, gia đình thuộc hộ nghèo nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là chị Trần Thị V, chị Trần Nguyễn Khánh L và chị Trịnh Thị T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên về trách nhiệm dân sự không đặt ra giải quyết.

[7]. Về vật chứng của vụ án: Đi với 03 chiếc điện thoại di động bị cáo P trộm cắp là tài sản hợp pháp của chị Trần Thị V, chị Trần Nguyễn Khánh L và chị Trịnh Thị T, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tiền Hải đã trả lại các tài sản trên cho chủ sở hữu là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 3 điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự nên được chấp nhận.

01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave anpha màu đỏ BKS 17K9- 2948 thu của Bị cáo Vũ Thị Thu P là P tiện bị cáo dùng để đi trộm cắp tài sản nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

[8]. Về các vấn đề khác của vụ án: Trong vụ án này có anh Vũ Thanh B là người đã nhận sửa cho Vũ Thị Thu P chiếc điện thoại nhãn hiệu Xiaomi Realme màu xanh. Tuy nhiên tài liệu điều tra đã xác định anh Bình không biết đây là chiếc điện thoại do P trộm cắp mà có nên Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện Tiền Hải không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với anh Vũ Thanh Blà có căn cứ.

[9]. Về án phí: Theo quy định của pháp luật bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nhưng bị cáo thuộc hộ cận nghèo. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa và người bào chữa cho bị cáo đề nghị miễn án phí hình sư sơ thẩm cho bị cáo nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vũ Thị Thu P.

[9]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, Bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 50, Điều 38, Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 136, điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Thị Thu P phạm tội “ Trộm cắp tài sản”

2. Về hình phạt: Xử phạt Bị cáo Vũ Thị Thu P 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 07/6/2022.

3. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.

4. Về vật chứng: - Tịch thu sung quỹ nhà nước một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave anpha màu đỏ BKS 17K9-2948.

- Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tiền Hải trả lại 01 chiếc điện thoại Sam sung J2 Pro màu vàng cho chị Trần Thị V, 01 chiếc điện thoại di động Iphone XS max màu đen cho chị Trần Nguyễn Khánh L và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Xiaomi Redmi màu xanh cho chị Trịnh Thị T.

(Vật chứng của vụ án đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiền Hải theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/8/2022 giữa Công an huyện Tiền Hải và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiền Hải).

5. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho Bị cáo Vũ Thị Thu P.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (21/9/2022).

Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 75/2022/HSST

Số hiệu:75/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về