Bản án về tội trộm cắp tài sản số 72/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ - THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 72/2022/HS-ST NGÀY 07/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 73/2022/TLST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2022/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Nhật L; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 01 tháng 7 năm 1993 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: Tổ 69 phường T, quận S, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa: 06/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn Hoài T (SN 1969) và bà: Nguyễn Thị M (SN 1975); Gia đình có bốn anh em, bị can là con thứ nhất; Có vợ: Cao Thị Mỹ H, sinh năm: 1998 có 03 người con, con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ nhất sinh năm 2019; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 15/12/2021, bị Đồn Biên phòng Sơn Trà xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi trộm cắp tài sản; Nhân thân: Ngày 02/7/2019 bị Toà án nhân dân quận Sơn Trà áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 12 tháng, chấp hành xong tháng 12 năm 2019; Bị cáo hiện đang tại ngoại bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng (Có mặt).

- Bị hại: Ông Đỗ Văn H, sinh năm: 1972, địa chỉ: xã H, huyện B, tỉnh Quảng Bình (Vắng mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Cao Thị Mỹ L, sinh năm:

1996, địa chỉ: Thôn 4, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam. (Vắng mặt).

- Người làm chứng: Ông Hồ Đăng K, sinh năm: 1982, địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh Quảng Bình. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ ngày 05/5/2022, Nguyễn Nhật L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ, BKS 92M1-195.28 từ nhà đến cảng cá Thọ Quang để mua cá. Khi đến nơi, L để xe trên vỉa hè cạnh cổng ra của ban quản lý Âu Thuyền rồi đi bộ vào khu vực cầu cảng số 2 thì phát hiện tàu cá mang số hiệu QB 92879TS do ông Hồ Đăng K (SN 1982; Trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh Quảng Bình) làm chủ đang neo đậu tại đây. L quan sát xung quanh thì thấy các thuyền viên của tàu đang bốc vác cá ở phía trước tàu, phía sau cabin tàu không có ai trông coi nên L này sinh ý định trộm cắp tài sản. L đi lên vào phía cabin tàu, phát hiện thấy 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 2015 màu xanh đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A83 màu hồng của ông Đỗ Văn H (SN 1972; Trú: Xã H, huyện B, tỉnh Quảng Bình) đang để trên kệ gỗ trong cabin tàu nên L lấy bỏ vào túi quần rồi đi ra khỏi tàu. Do thấy có người đi ra từ trong cabin tàu nên anh Kháng tri hô mọi người giữ L lại để kiểm tra thì phát hiện 02 điện thoại di động trong túi quần của L nên ông Kháng trình báo với cơ quan chức năng.

Tang vật thu giữ:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 2015 màu xanh đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A83 màu hồng (Đã trao trả cho ông Đỗ Văn H);

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ, BKS 92M1-195.28;

Tại Kết luận số: 17/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 27/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Sơn Trà xác định: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 2015 màu xanh đen có giá trị 950.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A83 màu hồng có giá trị 1.434.000 đồng. Tổng giá trị tài sản 2.384.000 đồng.

Qua điều tra xác định: Xe mô tô Honda Vision màu đỏ, BKS 92M1–195.28 do bà Cao Thị Mỹ L (SN: 1996; Trú: Xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam – là chị vợ của Nguyễn Nhật L) đứng tên chủ sở hữu. Vào ngày 04/5/2022, bà L về quê, có giao xe này cho L để làm phương tiện đi lại, bà Linh không biết việc L sử dụng xe này để đi trộm cắp tài sản nên Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Sơn Trà đã trả lại xe này cho bà L là phù hợp.

Về bồi thường dân sự: Ông Đỗ Văn H đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại bản Cáo trạng số 73/CT-VKS ngày 04/8/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Nguyễn Nhật L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Qua xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố Nguyễn Nhật L về tội “Trộm cắp tài sản” Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Nhật L mức hình phạt từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông Đỗ Văn H đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đề cập giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra công an quận Sơn Trà đã trả lại tài sản là 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 2015 màu xanh đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A83 màu hồng cho ông Đỗ Văn H nên không đề cập xử lý.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ, BKS 92M1-195.28 do bà Cao Thị Mỹ L làm chủ sở hữu, bà Linh cho Nguyễn Nhật L mượn để sử dụng đi lại, không biết bị cáo sử dụng xe làm phương tiện phạm tội nên đã trả xe lại cho bà Cao Thị Mỹ L là phù hợp;

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo mong bị hại bỏ qua lỗi lầm của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Sơn Trà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Qua xem xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa, quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Vào ngày 05/5/2022, Nguyễn Nhật L đã cố ý thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 2015 màu xanh đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A83 màu hồng của ông Đỗ Văn H có trị giá tổng cộng là 2.384.000 đồng.

Hành vi cố ý lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có tổng giá trị trên 2.000.000 đồng của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng số 73/CT-VKS ngày 04/8/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Nguyễn Nhật L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đã cố ý lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của người bị hại trộm cắp tài sản trị giá 2.384.000 đồng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Do đó, cần phải quyết định một mức hình phạt nghiêm khắc mới tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo.

[4]. Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền sự xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản và có nhân thân trước đây bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội gây thiệt hại không lớn, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[5]. Về biện pháp chấp hành hình phạt: Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy không có căn cứ xác định được thu nhập, tài sản của bị cáo nên không áp dụng hình phạt tiền bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông Đỗ Văn H đã nhận tài tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[8]. Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra công an quận Sơn Trà đã trả lại tài sản là 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 2015 màu xanh đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A83 màu hồng cho ông Đỗ Văn H nên không đề cập xử lý;

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ, BKS 92M1-195.28 do bà Cao Thị Mỹ L làm chủ sở hữu, bà Linh cho Nguyễn Nhật L mượn để sử dụng đi lại, không biết bị cáo sử dụng xe làm phương tiện phạm tội nên đã trả xe lại cho bà Cao Thị Mỹ L là phù hợp.

[9]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

[10]. Xét các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về áp dụng điều luật, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là có căn cứ nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Nhật L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Nhật L 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

2. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Nhật L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 72/2022/HS-ST

Số hiệu:72/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về