Bản án về tội trộm cắp tài sản số 70/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 70/2021/HS-ST NGÀY 11/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong các ngày 04, 05 và 11 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 782/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 455/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 02 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Lê Chí H; sinh năm: 1990, tại Tiền Giang; đăng ký thường trú: tổ 31, khu 2, thị trấn C, huyện CB, tỉnh T; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trà Văn M và bà Lê Thị Thanh N; vợ: Lâm Thị Thùy D; tiền sự: không có; tiền án: không có; nhân thân: ngày 10/9/2008, bị Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản” (theo Bản án số 265/2008/HSST); bị bắt, tạm giam ngày: 15/9/2019; có mặt tại phiên tòa.

2. Lâm Thị Thùy D; sinh năm: 1987, tại Bến Tre; đăng ký thường trú: Ấp L, xã LĐ, huyện B, tỉnh BT; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lâm Tiến D và bà Nguyễn Thị H; chồng: Lê Chí H; tiền sự: không có; tiền án: không có; bị bắt, tạm giam ngày: 15/9/2019; có mặt tại phiên tòa.

3. Dương Thị Thu V; sinh năm: 1970, tại Thành phố Hồ Chí Minh; đăng ký thường trú: 297B/4 đường B, Phường T, Quận T, Thành phố H; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn H (chết) và bà Dương Minh Q; có chồng và 02 con (lớn sinh năm: 1988, nhỏ sinh năm: 1997): tiền sự: không có; tiền án: không có; bị bắt, tạm giam ngày: 15/9/2019; có mặt tại phiên tòa.

4. Nguyễn Thị Thu T; sinh năm: 1972, tại Kiên Giang; đăng ký thường trú: 297B/4 đường B, Phường T, Quận T, Thành phố H; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Y (chết) và bà Huỳnh Thị D; tiền sự: không có; tiền án: không có; bị bắt, tạm giam ngày: 15/9/2019; có mặt tại phiên tòa.

5. Trần Thanh H1; sinh năm: 1997, tại Tây Ninh; đăng ký thường trú: 290/56/13/58M đường N, Phường MH, quận BT, Thành phố H; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thanh C và bà Đào Thị A; tiền sự: không có; tiền án: không có; nhân thân:

+ Ngày 20/01/2015, bị Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (theo Bản án số 08/2015/HSST);

+ Ngày 18/11/2016, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (theo Bản án số 678/2016/HSPT);

+ Bị bắt, tạm giam ngày: 15/9/2019; có mặt tại phiên tòa.

6. Nguyễn Trung T1; sinh năm: 1997, tại Hà Nam; đăng ký thường trú: 61 đường T, Phường B, Quận B, Thành phố H; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn M và bà Trần Thị H; tiền sự: không có; tiền án: không có; bị bắt, tạm giam ngày: 15/9/2019; có mặt tại phiên tòa.

7. Nguyễn Thành Hoàng H2; sinh năm: 1996, tại Thành phố Hồ Chí Minh; đăng ký thường trú: 75/4 đường T, Phường C, Quận B, Thành phố H; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thành T và bà Nguyễn Thị X; tiền sự: không có; tiền án: không có; bị bắt, tạm giam ngày: 15/9/2019; có mặt tại phiên tòa.

8. Phạm Văn T2; sinh năm: 1997, tại Thành phố Hồ Chí Minh; đăng ký thường trú: 615A đường N, Phường MH, Quận T, Thành phố H; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn X và bà Thạch Thị L; tiền sự: không có; tiền án: không có; bị bắt, tạm giam ngày: 15/9/2019; có mặt tại phiên tòa.

9. Trần Thị Thanh H3; sinh năm: 1989, tại Đồng Nai; đăng ký thường trú: 290/56/13/58M đường N, Phường MH, quận BT, Thành phố H; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thanh C và bà Đào Thị A; có 01 con sinh năm 2008; tiền sự: không có; tiền án: không có; bị bắt, tạm giam ngày: 15/9/2019; có mặt tại phiên tòa.

10. Huỳnh Văn S; sinh năm: 1999, tại Thành phố Hồ Chí Minh; đăng ký thường trú: 137/30 đường C, Phường MH, Quận T, Thành phố H; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn P và bà Huỳnh Thị Kim H; tiền sự: không có; tiền án: không có; bị bắt, tạm giam ngày: 15/9/2019; có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Lâm Thị Thùy D: Ông Nguyễn Năng Q - Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Ông Nguyễn Tuấn D, sinh năm: 1975; đăng ký thường trú: 212 Lô B, chung cư T, Phường B, Quận B, Thành phố H; vắng mặt tại phiên tòa.

2. Ông Trần Văn T3, sinh năm: 1968; đăng ký thường trú: 12C4 đường P, ấp N, xã BH, huyện BC, Thành phố H; vắng mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Trần Thị H4, sinh năm: 1960; đăng ký thường trú: 61 đường TX, Phường B, Quận B, Thành phố H; vắng mặt tại phiên tòa.

2. Ông Vũ Minh N, sinh năm: 1967; đăng ký thường trú: 721 đường LĐT, Phường MS, quận GV,Thành phố H; vắng mặt tại phiên tòa.

3. Ông Trần Minh T4, sinh năm: 1970; đăng ký thường trú: ấp AT, xã ĐHH, huyện CB, tỉnh TG; vắng mặt tại phiên tòa.

4. Ông Nguyễn Tất T5; đăng ký thường trú: E12 Cư xá X, Phường HL, quận BT, Thành phố H; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Lê Chí H đã thống nhất cấu kết cùng với các bị cáo khác thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, với thủ đoạn là các bị cáo Huỳnh Văn S, Trần Thị Thanh H3 giả làm gái bán dâm đưa người mua dâm đến căn phòng tại nhà số C9/6Z, tổ 218, ấp 4A, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh do bị cáo H thuê, tự thiết kế lại, chuẩn bị sẵn. Khi vào phòng, thì sẽ yêu cầu người mua dâm để quần áo và tư trang lên bàn cạnh giường, khi đó bị cáo H sẽ chui qua từ một lỗ đã thiết kế sẵn của phòng kế bên sang chiếm đoạt tài sản. Đồng thời, bị cáo H cũng phân công vai trò cụ thể của các bị cáo khác như sau: các bị cáo Nguyễn Thành Hoàng H2, Trần Thanh H1 có nhiệm vụ chở các bị cáo Huỳnh Văn S, Trần Thị Thanh H3 giả làm gái bán dâm, khi có người mua dâm sẽ đưa về căn nhà nêu trên. Bị cáo Nguyễn Trung T1 có nhiệm vụ dắt xe cho khách, cạy cốp xe của khách để chiếm đoạt tài sản nếu có và cảnh giới. Bị cáo Nguyễn Thị Thu T dẫn khách vào phòng mà bị cáo H đã bố trí sẵn, thu tiền phòng và khi bị cáo H chiếm đoạt tài sản xong thì bị cáo T sẽ báo hiệu để bị cáo H3, S đi ra ngoài và được các bị cáo H2, H1 chở đi tẩu thoát. Tài sản chiếm đoạt được thì bị cáo H sẽ chia ra để bị cáo D giữ tiền, còn bị cáo V giữ điện thoại. Sau đó, bị cáo Thủy sẽ vào phòng thông báo cho bị hại ra về, nếu bị hại phát hiện bị mất tài sản và cự cãi thì các bị cáo H, T1, T sẽ cản lại và yêu cầu tự tìm gái bán dâm giải quyết. Bị cáo Phạm Văn T2 có nhiệm vụ theo dõi, nếu bị hại đến cơ quan công an trình báo thì sẽ chặn lại, thông báo là bị hại bị rớt tài sản và dàn xếp trả lại. Đồng thời, các bị cáo cũng thỏa thuận trước tỷ lệ phân chia trị giá tài sản chiếm đoạt được.

Với thủ đoạn như trên, tại nhà số C9/6Z, tổ 218, ấp 4A, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, vào khoảng 19 giờ ngày 15/9/2019, các bị cáo đã chiếm đoạt được của ông Trần Văn T3 01 điện thoại di động Oppo A7, 01 điện thoại di động Nokia C1-01, số tiền 500.000 đồng; đến khoảng 20 giờ cùng ngày, các bị cáo chiếm đoạt được của ông Nguyễn Tuấn D 01 điện thoại di động Iphone 6S, số tiền 10.000.000 đồng. Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Lê Chí H, Lâm Thị Thùy D, Dương Thị Thu V, Nguyễn Thị Thu T, Trần Thanh H1, Nguyễn Trung T1, Nguyễn Thành Hoàng H2, Phạm Văn T2, Trần Thị Thanh H3 và Huỳnh Văn S về hành vi chiếm đoạt tài sản. Tại cơ quan điều tra, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Ngoài ra, quá trình điều tra còn xác định được Lê Trung H5 (sinh ngày: 16/11/2003) có tham gia cùng chiếm đoạt tài sản nhưng chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nên cơ quan điều tra chuyển xử phạt hành chính.

Bản Cáo trạng số 371/CT-VKS-P2 ngày 14 tháng 8 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Lê Chí H, Lâm Thị Thùy D, Dương Thị Thu V, Nguyễn Thị Thu T, Trần Thanh H1, Nguyễn Trung T1, Nguyễn Thành Hoàng H2, Phạm Văn T2, Trần Thị Thanh H3 và Huỳnh Văn S tội danh “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày lời luận tội, giữ quan điểm như truy tố, nêu lên các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Lê Chí H từ 05 năm đến 06 năm tù; đối với các bị cáo Nguyễn Thị Thu T, Trần Thanh H1, Nguyễn Trung T1, Nguyễn Thành Hoàng H2, Phạm Văn T2 từ 04 năm đến 05 năm tù; đối với bị cáo Trần Thị Thanh H3, Huỳnh Văn S từ 03 năm đến 04 năm tù; đối với các bị cáo Lâm Thị Thùy D, Dương Thị Thu V từ 02 năm đến 03 năm tù. Đề nghị xử lý vật chứng đã thu giữ theo quy định. Về trách nhiệm dân sự, các bị hại đã nhận lại được các tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Người bào chữa cho bị cáo Lâm Thị Thùy D trình bày: Thống nhất về tội danh, điều khoản mà Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố đối với bị cáo D. Đồng thời nêu thêm các tình tiết giảm nhẹ khác là: bị cáo có vai trò rất mờ nhạt trong vụ án; có nhân thân tốt, đây là lần đầu phạm tội; tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại, nên thuộc trường hợp “phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo D mức án thấp nhất, dưới khung hình phạt để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, bị cáo sớm trở về với gia đình.

- Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng nêu, xác định bị truy tố tội danh “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, bị hại, người liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của các bị cáo Lê Chí H, Lâm Thị Thùy D, Dương Thị Thu V, Nguyễn Thị Thu T, Trần Thanh H1, Nguyễn Trung T1, Nguyễn Thành Hoàng H2, Phạm Văn T2, Trần Thị Thanh H3 và Huỳnh Văn S tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở để xác định bị cáo Lê Chí H đã tổ chức, thống nhất cấu kết cùng với các bị cáo khác thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, với thủ đoạn là giả làm gái bán dâm rồi đưa người mua dâm đến căn phòng do bị cáo H thuê, chuẩn bị sẵn. Khi vào phòng, thì sẽ yêu cầu người mua dâm để quần áo và tư trang lên bàn cạnh giường, khi đó bị cáo H sẽ lén lút chui qua từ một lỗ đã thiết kế sẵn của phòng kế bên sang chiếm đoạt tài sản. Các bị cáo khác thì giúp sức cho bị cáo H với các nhiệm vụ, vai trò khác nhau như: giả làm gái bán dâm, dắt xe, cạy cốp, cảnh giới, dắt vào phòng chuẩn bị sẵn, ra hiệu khi chiếm đoạt được tài sản, chở đồng bọn tẩu thoát, giữ tài sản, theo dõi bị hại để đối phó, …Với thủ đoạn như trên, tại nhà số C9/6Z, tổ 218, ấp 4A, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, vào khoảng 19 giờ ngày 15/9/2019, các bị cáo đã chiếm đoạt được của ông Trần Văn T3 01 điện thoại di động Oppo A7, 01 điện thoại di động Nokia C1-01, số tiền 500.000 đồng; đến khoảng 20 giờ cùng ngày, các bị cáo chiếm đoạt được của ông Nguyễn Tiến Dũng 01 điện thoại di động Iphone 6S, số tiền 10.000.000 đồng thì bị lực lượng công an bắt quả tang.

Theo Kết luận định giá số 7862/KL-HĐĐGTS ngày 19/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong Tố tụng hình sự cấp Thành phố, thì: điện thoại di động Oppo A7 trị giá 2.483.000 đồng, điện thoại di động Nokia C1-01 trị giá 340.000 đồng và chiếc điện thoại di động Iphone 6S trị giá 2.913.000 đồng. Như vậy, tổng trị giá các tài sản bị chiếm đoạt là 16.236.000 đồng; trong đó, trị giá các tài sản mà ông Trần Văn T3 bị chiếm đoạt là 3.326.000 đồng và trị giá các tài sản mà ông Nguyễn Tuấn D bị chiếm đoạt là 12.913.000 đồng.

[3] Ngoài ra, các bị cáo còn khai nhận với thủ đoạn tương tự đã thực hiện nhiều vụ chiếm đoạt tài sản khác, tuy nhiên cơ quan điều tra chưa tìm được bị hại, khi nào làm rõ được sẽ xử lý sau.

[4] Hành vi lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu, lén lút tiếp cận rồi chiếm đoạt tài sản của người khác với tổng trị giá 16.236.000 đồng mà các bị cáo cùng thực hiện, đã đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Các bị cáo tiếp nhận ý của nhau với cùng mục đích là chiếm đoạt tài sản của người khác, cố ý cùng thực hiện tội phạm nên thuộc trường hợp đồng phạm. Đồng thời, các bị cáo có sự phân công vai trò, câu kết chặt chẽ với nhau khi thực hiện tội phạm nên thuộc trường hợp “có tổ chức”; trong đó, bị cáo H là người tổ chức và thực hành, còn các bị cáo còn lại là người giúp sức. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo tội danh “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng quy định.

[5] Các bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, nên có lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến khách thể được pháp luật bảo vệ đó là quyền sở hữu đối với tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: trong cả hai lần chiếm đoạt tài sản mà các bị cáo thực hiện vào ngày 15/9/2019, thì mỗi lần đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm, nên các bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ là “phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn”, vì tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại; “thành khẩn khai báo”, tại phiên tòa tỏ ra “ăn năn hối cải”; các bị cáo D, V, T, T1, H2, T2, H3 và S được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ là có nhân thân tốt, đây là lần đầu phạm tội. Những tình tiết giảm nhẹ này quy định tại các điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[8] Khi xem xét quyết định hình phạt đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử có xem xét đến tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, cũng như nhân thân và vai trò cụ thể của từng bị cáo nhằm mục đích giáo dục, răn đe và phòng ngừa cho toàn xã hội. Trong đó, bị cáo H là người chủ mưu nên phải chịu hình phạt nghiêm khắc hơn các bị cáo khác. Lời bào chữa mà người bào chữa cho bị cáo D trình bày là có căn cứ nên được chấp nhận, bị cáo D có hơn hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, phạm tội lần đầu là đồng phạm giúp sức nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án; do đó, được Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Đồng thời, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo S cũng có các tình tiết giảm nhẹ và vai trò tương tự như bị cáo D, nên bị cáo S cũng được áp dụng mức hình phạt tương tự.

[9] Về xử lý vật chứng thu giữ trong vụ án và trách nhiệm dân sự:

- 01 điện thoại di động Oppo A7, 01 điện thoại di động Nokia C1-01, 01 điện thoại di động Iphone 6S và số tiền 10.500.000 đồng: đây là các tài sản bị chiếm đoạt, đã được thu hồi trả lại cho các bị hại - ông Trần Văn T3, ông Nguyễn Tuấn D. Việc giao trả này là đúng; đồng thời, các bị hại không có yêu cầu bồi thường thiệt hại, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- 01 điện thoại di động Iphone 5S, 01 loa nhỏ màu xanh có ghi chữ WIRELESS SPEAKER thu giữ của bị cáo Lê Chí H: chiếc điện thoại được bị cáo liên lạc, sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước; còn chiếc loa là tài sản cá nhân, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- 01 điện thoại Nokia màu đen, 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Dylan mang biển số 59V1-X thu giữ của bị cáo Trần Thanh H1:

+ Chiếc điện thoại được bị cáo liên lạc, sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

+ Qua điều tra, xác định được chiếc xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Dylan, biển số 59V1-X do ông Vũ Minh N đứng tên chủ sở hữu và ông N đã bán cho người khác nhưng chưa làm thủ tục chuyển tên chủ sở hữu. Bị cáo mua chiếc xe này từ người khác và cũng chưa làm thủ tục chuyển tên chủ sở hữu theo quy định. Xét thấy, chiếc xe này đang thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bị cáo, được bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- 01 điện thoại Nokia màu đen thu giữ của bị cáo Trần Thị Thanh H3: chiếc điện thoại được bị cáo liên lạc, sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- 01 điện thoại Nokia màu xanh, 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda Wave S mang biển số 54F2-X thu giữ của bị cáo Nguyễn Trung T1:

+ Chiếc điện thoại được bị cáo liên lạc, sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

+ Qua điều tra, xác định được xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda Wave S mang biển số 54F2-X thuộc sở hữu của bà Trần Thị H4 - mẹ ruột bị cáo. Xét thấy, bà H4 cho bị cáo mượn xe sử dụng, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại xe cho bà H4.

- Số tiền 5.000.000 đồng, 01 điện thoại Nokia màu vàng, 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda Vision mang biển số 71C-X thu giữ của bị cáo Lâm Thị Thùy D:

+ Chiếc điện thoại Nokia màu vàng và 01 chiếc xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda Vision biển số 71C-X là các tài sản thuộc sở hữu của bị cáo, được bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

+ Số tiền 5.000.000 đồng không chứng minh được liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho bị cáo.

- 01 điện thoại Nokia màu xanh đậm, 01 điện thoại Kenchaoda màu bạc, 01 máy tính bảng Samsung Galaxt Tab A màu đen, 01 cuốn sổ tay, 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda Dream mang biển số 63K9-X thu giữ của bị cáo Dương Thị Thu V:

+ 01 điện thoại Nokia màu xanh đậm, 01 điện thoại Kenchaoda màu bạc, 01 máy tính bảng Samsung Galaxt Tab A màu đen là các tài sản thuộc sở hữu của bị cáo, được bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. Còn cuốn sổ tay là vật dụng cá nhân, không liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho bị cáo.

+ Qua điều tra, xác định được xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda Dream mang biển số 63K9-X do ông Trần Minh T4 đứng tên chủ sở hữu và ông T4 đã bán cho người khác nhưng chưa làm thủ tục chuyển tên chủ sở hữu. Bị cáo mua chiếc xe này từ người khác và cũng chưa làm thủ tục chuyển tên chủ sở hữu theo quy định. Xét thấy, chiếc xe này đang thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bị cáo, được bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, đồng thời số máy có dấu vết cắt hàn tháp số và không xác định được số nguyên thủy nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- 01 điện thoại Iphone màu đỏ đen, 01 điện thoại Oppo màu đen, 01 điện thoại Nokia màu xanh, 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda Wave RXS biển số 59F2-X thu giữ của bị cáo Nguyễn Thành Hoàng H2: các tài sản này thuộc sở hữu của bị cáo, được bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- 01 điện thoại Samsung màu đen, 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Yamaha Luvias biển số 59L2-X thu giữ của bị cáo Phạm Văn T2: các tài sản này thuộc sở hữu của bị cáo, được bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- 01 điện thoại Iphone màu vàng đồng thu giữ của bị cáo Huỳnh Văn S: tài sản này thuộc sở hữu của bị cáo, được bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Ngoài ra, quá trình điều tra cơ quan điều tra còn thu giữ chiếc xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Attila màu bạc biển số 52S2-X. Qua điều tra, xác định được chiếc xe do ông Nguyễn Tất T5 - đăng ký thường trú: E12 Cư xá X, Phường HL, quận BT - đứng tên chủ sở hữu, ông T5 thực tế không cư ngụ tại địa phương. Xét thấy, chưa chứng minh được liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại xe cho ông T5.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo các Lê Chí H, Trần Thanh H1;

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với các bị cáo Dương Thị Thu V, Nguyễn Thị Thu T, Nguyễn Trung T1, Nguyễn Thành Hoàng H2, Phạm Văn T2, Trần Thị Thanh H3;

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; khản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với các bị cáo Lâm Thị Thùy D, Huỳnh Văn S;

Tuyên bố các bị cáo Lê Chí H, Lâm Thị Thùy D, Dương Thị Thu V, Nguyễn Thị Thu T, Trần Thanh H1, Nguyễn Trung T1, Nguyễn Thành Hoàng H2, Phạm Văn T2, Trần Thị Thanh H3 và Huỳnh Văn S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lê Chí H 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính ngày 15/9/2019.

Xử phạt bị cáo Trần Thanh H1 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính ngày 15/9/2019.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung T1 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính ngày 15/9/2019.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu T 03 (ba) tù, thời hạn tù tính ngày 15/9/2019.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn T2 03 (ba) tù, thời hạn tù tính ngày 15/9/2019.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành Hoàng H2 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính ngày 15/9/2019.

Xử phạt bị cáo Dương Thị Thu V 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính ngày 15/9/2019.

Xử phạt bị cáo Trần Thị Thanh H3 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính ngày 15/9/2019.

Xử phạt bị cáo Lâm Thị Thùy D 01 (một) năm 05 (năm) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày tù, thời hạn tù tính ngày 15/9/2019.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn S 01 (một) năm 05 (năm) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày tù, thời hạn tù tính ngày 15/9/2019.

2. Căn cứ vào Điều 328 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Trả tự do ngay tại phiên tòa cho các bị cáo Lâm Thị Thùy D, Huỳnh Văn S nếu các bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

3. Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động Iphone 5S, 01 điện thoại Nokia màu đen, 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Dylan biển số 59V1-X, 01 điện thoại Nokia màu đen, 01 điện thoại Nokia màu xanh, 01 điện thoại Nokia màu vàng, 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda Vision biển số 71C-X, 01 điện thoại Nokia màu xanh đậm, 01 điện thoại Kechaoda màu bạc, 01 máy tính bảng Samsung Galaxt Tab A màu đen, 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda Dream biển số 63K9-X, 01 điện thoại Iphone màu đỏ đen, 01 điện thoại Oppo màu đen, 01 điện thoại Nokia màu xanh, 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda Wave RXS biển số 59F2-X, 01 điện thoại Samsung màu đen, 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Yamaha Luvias biển số 59L2-X, 01 điện thoại Iphone màu vàng đồng.

- Trả lại cho bị cáo Lê Chí H: 01 loa nhỏ màu xanh có ghi chữ WIRELESS SPEAKER.

- Trả lại cho bà Trần Thị H4: 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda Wave S biển số 54F2-X.

- Trả lại cho bị cáo Lâm Thị Thùy D: số tiền 5.000.000 đồng.

- Trả lại cho bị cáo Dương Thị Thu V: 01 cuốn sổ tay.

- Trả lại cho ông Nguyễn Tất T5: 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Attila màu bạc biển số 52S2-X.

(Theo biên bản giao nhận tang, tài vật số NK2020/454 ngày 15/9/2020 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố. Tiền Việt Nam đã được chuyển vào tài khoản tạm giữ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, số tài khoản 39490905977500000 mở tại Kho bạc nhà nước Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh theo giấy nộp tiền số 190.21.0001.0139).

4. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

các điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo phải chịu là 200.000 đồng.

5. Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 70/2021/HS-ST

Số hiệu:70/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về