TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 70/2020/HS-PT NGÀY 31/07/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 31 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 43/2020/TLPT-HS ngày 03/6/2020 đối với bị cáo Nguyễn Quốc V do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quốc V đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 22/2020/HS-ST ngày 29 tháng 4 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Quốc V; tên gọi khác: V T; sinh ngày 11 tháng 12 năm 1973 tại huyện B, tỉnh Quảng Bình. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Q, xã T, huyện B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Công L và bà Võ Thị T; có vợ là chị Hồ Thị T và có 02 đứa con (đứa lớn sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2001); tiền án, tiền sự: Không.
Về nhân thân:
- Ngày 16/4/2007 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xử phúc thẩm, phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” (Bản án số: 23/2007/HSPT). Ngày 27/01/2010 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xử phúc thẩm, phạt 08 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” (Bản án số: 09/2010/HSPT).
- Ngày 20/4/2010 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xử phúc thẩm, phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số: 35/2010/HSPT). Tổng hợp hình phạt 08 năm 06 tháng tù tại Bản án số 09/2010/HSPT ngày 27/01/2010 của TAND tỉnh Quảng Bình. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 09 năm tù. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 09/02/2016 và đã chấp hành xong phần trách nhiệm dân sự, án phí của các bản án.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/01/2020 cho đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Bình. Có mặt tại phiên toà.
Trong vụ án này còn có bị cáo Nguyễn Văn S nhưng không có kháng cáo, kháng nghị, không liên quan đến nội dung kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quốc V nên Toà án không triệu tập tham gia phiên toà phúc thẩm.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 20/11/2019 Nguyễn Văn S gọi điện thoại rũ Nguyễn Quốc V đến nhà anh Nguyễn Quốc D ở thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Quảng Bình để lấy trộm các tấm sắt dùng để ghép khuôn trụ đổ bê tông của anh D bán lấy tiền tiêu xài, V đồng ý. Khoảng 18 giờ ngày 20/11/2019 Nguyễn Quốc V điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave, BKS 73N2- AAAA chở Nguyễn Văn S đến cách nhà anh D khoảng 50m rồi cả hai đi bộ đến lấy trộm 12 tấm sắt, có kích thước dài 01m, rộng 21cm có tổng trọng lượng 86kg, rồi dùng mô tô trên chở đến bán cho ông Nguyễn Văn K lấy được 430.000đồng. Khoảng 23 giờ 00’ cùng ngày S và V tiếp tục đến nhà anh D lấy trộm 16 tấm sắt, trong đó có 12 tấm kích thước dài 01m, rộng 30cm và 04 tấm kích thước dài 01m, rộng 47cm có tổng trọng lượng là 116kg, đưa đến bán cho ông K lấy được 580.000đồng. Đến rạng sáng ngày 21/11/2019, S và V tiếp tục quay lại nhà anh D lấy trộm thêm 09 tấm sắt, có 05 tấm kích thước dài 01m, rộng 28cm; 03 tấm kích thước dài 01m, rộng 47cm và 01 tấm kích thước dài 01m, rộng 15cm có tổng trọng lượng 50kg, đến bán cho ông K lấy 250.000đồng. Tổng cộng S và V đã lấy trộm của anh D 37 tấm sắt, tổng trọng lượng 252 kg bán cho ông K lấy 1.260.000 đồng, chia nhau tiêu xài.
Kết luận định giá tài sản số 63/KL- HĐĐGTS ngày 04/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B kết luận: 37 tấm sắt dùng để ghép khuôn trụ đổ bê tông bị chiếm đoạt của anh Nguyễn Văn D có trị giá 9.280.000đồng.
Cáo trạng số: 17/CT- VKSBT ngày 23/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn S và Nguyễn Quốc V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Bản án hình sự sơ thẩm số: 22/2020/HS-ST ngày 29/4/2020 của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S và Nguyễn Quốc V phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Văn S. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Quốc V. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 13 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 03/02/2020; Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc V 13 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 16/01/2020. Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo, xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 13/5/2020, bị cáo Nguyễn Quốc V kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, với lý do bản thân bị cáo bị bệnh xuất huyết tiêu hoá mãn tính, hoàn cảnh gia đình khó khăn, hai con còn đi học, bị cáo là lao động chính trong gia đình, bố mẹ già yếu, bố là thương binh 2/4 nên đề nghị cấp phúc thẩm xem xét cho bị cáo.
Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Nguyễn Quốc V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung của bản án sơ thẩm. Bị cáo thừa nhận Tòa án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội trộm cắp tài sản là đúng người, đúng tội, còn mức án 13 tháng tù là quá nặng nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo về phần hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên toà phúc thẩm đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quốc V, giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Quốc V tại phiên tòa phúc thẩm hoàn toàn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa. Như vậy Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở để kết luận vào tối ngày 20/11/2019, bị cáo Nguyễn Văn S đã rủ bị cáo Nguyễn Quốc V đến nhà anh Nguyễn Văn D ở thôn A, xã T, huyện B lấy trộm tổng cộng 37 tấm sắt (các tấm sắt này được sử dụng để ghép khuôn trụ đổ bê tông), tổng trị giá 37 tấm sắt mà các bị cáo lấy trộm của anh D là 9.280.000 đồng. Do đó bản án sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S và bị cáo Nguyễn Quốc V phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Quốc V, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo Nguyễn Quốc V là người có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị Toà án xử phạt tù về các tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, “Mua bán trái phép chất ma tuý” và tội “Trộm cắp tài sản”, nhưng sau khi ra tù bị cáo không chịu khó rèn luyện bản thân để trở thành người tốt, có ích cho xã hội. Bị cáo phạm tội lần này không thuộc trường hợp “Tái phạm”, tuy nhiên hành vi phạm tội của bị cáo đã thể hiện ý thức coi thường pháp luật, do đó Tòa án cần áp dụng hình phạt tù để nghiêm trị đối với bị cáo. Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch đã đánh giá đúng tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, đã áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xử phạt mức án 13 tháng tù là đúng quy định. Tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo nêu trong đơn kháng cáo như bị cáo có bố là thương binh hạng 2/4 đã được cấp sơ thẩm áp dụng; còn các tình tiết khác mà bị cáo trình bày trong đơn kháng cáo là không có cơ sở để chấp nhận. Vì vậy, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3]. Bị cáo Nguyễn Quốc V kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
[4]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Quốc V, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc V 13 (mười ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 16/01/2020.
2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Quốc V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (31/7/2020).
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 70/2020/HS-PT
Số hiệu: | 70/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về