Bản án về tội trộm cắp tài sản số 68/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L-TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 68/2022/HSST NGÀY 26/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 8 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 61/2022/TLST-HS ngày 02/8/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2022/QĐXXST-HS ngày 12/8/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Bảo D, sinh ngày 24/11/1995 tại tỉnh An Giang; Nơi cư trú: Số 617A, khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Đạo Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn C và bà Đỗ Bảo Thọ T; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 15/4/2016, bị Toà án nhân dân thành phố L xử phạt 06 tháng tù về tội “Bắt người trái pháp luật”. Đến ngày 27/5/2016 chấp hành xong hình phạt tù; Ngày 27/11/2018, bị Toà án nhân dân thành phố L xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Đến ngày 20/11/2020 chấp hành xong hình phạt tù. Bị cáo đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam Cao Lãnh - Bộ Công An từ ngày 20/4/2021 đến nay và có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Trần Anh T, sinh năm 1984. Nơi cư trú: Ấp V, xã V, huyện C, An Giang. (có đơn xin vắng mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Đỗ Bảo Thọ T, sinh năm 1979. Nơi cư trú: Số 617A, khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Bảo D đã có 02 tiền án về các tội “Bắt người trái pháp luật” và “Cố ý làm hư hỏng tài sản” nhưng chưa được xoá án tích. Khoảng 19 giờ ngày 07/4/2021, D đang ở tiệm “game bắn cá 52” ở phường M, thành phố L và sử dụng điện thoại di động của Trương Thị Tuyết N là bạn gái của D thì đọc được tin nhắn zalo của Trần Anh T gửi cho N. Do ghen tuông nên D nảy sinh ý định đánh T. Thực hiện ý định này, D dùng điện thoại của N nhắn tin zalo cho T hỏi vị trí của T thì T phản hồi tin nhắn kèm theo định vị đang ở tiệm cầm đồ X tại khóm T, phường M, thành phố L. Lúc này, D rủ C (không rõ họ tên, địa chỉ) quen biết tại tiệm “game bắn cá 52” đi đánh T thì C đồng ý và mang theo cây gậy đánh bóng chày bằng kim loại, màu đen, dài khoảng 50 cm; còn D lấy con dao bằng kim loại, lưỡi dao bằng kim loại dài khoảng 30 cm, lưỡi sắc, mũi nhọn. Sau đó, D điều khiển xe mô tô biển số 67L1-333.38 (mượn của Đỗ Bảo Thọ T - mẹ ruột của D) chở C đến tiệm cầm đồ X. Đến đây, D thấy T đang ngồi trên xe mô tô trước cửa tiệm nên chỉ cho C dùng gậy xông vào đánh T. D cầm dao xông vào định chém T thì bị T vật làm cả 02 ngã xuống đường. D cầm dao chém vào vùng đầu của T, còn C tiếp tục cầm gậy đánh vào vùng lưng, chân làm T bất tỉnh thì được bà Đỗ Thị N chủ tiệm cầm đồ X can ngăn nên D và C bỏ đi. T được người thân đưa đến Bệnh viện đa khoa trung tâm An Giang cấp cứu, điều trị đến ngày 12/4/2021 ra viện. Đến ngày 04/11/2021, Trần Anh T có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.

Bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 259/21/TgT ngày 01/6/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh An Giang đối với Trần Anh T, sinh năm 1984, xác định dấu hiệu chính qua giám định: Sẹo đỉnh phải, kích thước 5.5 x 0.2 cm, thẳng, sắc gọn: 02%, do vật sắc gây nên; Sây sát dạng mảng lưng trái để lại vết biến đổi sắc tố da, kích thước 03 x 01 cm: 0.5%, do vật tày gây nên; Sây sát mặt trước 1/3 trên cẳng chân phải, kích thước 02 x 1.5 cm + 01 x 0.5 cm + 1.5 x 01 cm: 01%, do vật tày gây nên; Sây sát mặt gối trái để lại vết biến đổi sắc tố da, kích thước 9.5 x 1.5 cm: 0.5%, do vật tày gây nên.

Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là:

04%; Kết luận khác: Thương tích do vật sắc và vật tày gây nên.

o trạng số: 60/CT-VKS ngày 25/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L truy tố các bị cáo Nguyễn Bảo D về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm d khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà sơ thẩm:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử, Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Bảo D từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Đề nghị áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” của bản án hình sự sơ thẩm số 116/2021/HSST ngày 29/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố L.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Trần Anh T không yêu cầu bị cáo bồi thường về dân sự nên không xét đến Tại phiên tòa cũng như tại Cơ quan điều tra, bị cáo Nguyễn Bảo D khai nhận: Giữa bị cáo và bị hại Trần Anh T không mâu thuẫn với nhau từ trước, chỉ vì thấy tin nhắn của anh T trong điện thoại Trương Thị Tuyết N (bạn gái của bị cáo) nên ghen tuông, tức giận và rủ người tên C dùng dao, gậy bóng chày tìm đánh anh T gây thương tích như Cáo trạng truy tố. Đối với người tên C, bị cáo không rõ họ tên người này và không rõ cư ngụ ở đâu. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, khung hình phạt, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, bị cáo đã ăn năn hối cải về hành vi vừa qua và gửi lời xin lỗi bị hại.

Bị hại Trần Anh T vắng mặt tại phiên tòa nhưng có gửi văn bản trình bày ý kiến: Ngày 07/4/2021, anh bị bị cáo D và người tên C gây thương tích ở vùng đầu, chân, phải điều trị thương tích tại bệnh viện. Sự việc đã qua, vết thương trên cơ thể đã lành, anh không yêu cầu bị cáo D bồi thường thiệt hại về dân sự, còn về trách nhiệm hình sự, yêu cầu Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo D.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử Các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về thủ tục tố tụng Bị hại Trần Anh T có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đỗ Bảo Thọ T được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt phiên tòa, không lý do. Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa không ý kiến về việc vắng mặt các đương sự nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án. Xét thấy quá trình điều tra, Cơ quan điều tra – Công an thành phố L đã tiến hành lấy lời khai, làm rõ các tính tiết trong vụ án, bị hại không yêu cầu bồi thường về dân sự nên việc vắng mặt này không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về trách nhiệm hình sự Ngày 07/4/2021, bị cáo Nguyễn Bảo D thừa nhận dùng dao bằng kim loại cùng với người tên C dùng gậy bóng chày, được xem là hung khí nguy hiểm chém, đánh bị hại Trần Anh T gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 04%. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, trích xuất camera tại hiện trường cùng các chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Như vậy, hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, việc truy tố bị cáo theo tội danh và khung hình phạt nêu trên là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận.

Đi với hành vi của người tên C, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L chưa xác định được họ tên, lý lịch nên không có căn cứ khởi tố bị can, cáo buộc trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm cùng bị cáo D. Do đó, Hội đồng xét xử kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.

[4] Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội Tính mạng, sức khỏe của con người là quan trọng, có sức khỏe con người mới tạo ra các giá trị vật chất, tinh thần phục vụ cho cuộc sống và phát triển xã hội nên pháp luật xem đây là quyền nhân thân bất khả xâm phạm, mọi hành vi xâm phạm đều bị nghiêm trị.

Bị cáo là người trưởng thành, khỏe mạnh, nhận thức và điều khiển được hành vi của bản thân. Mặc dù, giữa bị cáo và bị hại không mâu thuẫn với nhau từ trước, chỉ vì những hiểu lầm, ghen tuông vô vớ giữa bạn gái và bị hại mà bị cáo đã dùng bạo lực để giải quyết mâu thuẫn, bị cáo sử dụng dao được xem là hung khí nguy hiểm gây thương tích trên người bị hại, điều này thể hiện tính chất côn đồ, xem thường pháp luật, trực tiếp xâm hại đến quyền nhân thân, sức khỏe của bị hại được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, ảnh hưởng xấu đến đời sống bình thường của xã hội. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người dân biết tôn trọng pháp luật, răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Về nhân thân và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Về nhân thân: Bị cáo đang chấp hành 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Trại giam Cao Lãnh, Bộ Công an, điều này thể hiện bị cáo có nhân thân không tốt.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sư: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng định khung quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, bị cáo có 02 tiền án về tội “Bắt người trái pháp luật” và “Cố ý làm hư hỏng tài sản” nên lần phạm tội này thuộc trường tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm d khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 theo đề nghị truy tố của Viện kiểm sát là căn cứ.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Đại diện Viện kiểm sát đề nghị điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, thuộc trường hợp người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và bị hại có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt [7] Về trách nhiệm dân sự Bị hại Trần Anh T không yêu cầu bị cáo bồi thường về dân sự nên không xét đến.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm d khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Điều 136, Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và án phí Tòa án;

Xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đỗ Bảo Thọ T. Tuyên xử:

[1] Về hình phạt Xử phạt bị cáo Nguyễn Bảo D 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Tng hợp hình phạt 04 (bốn) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án hình sự sơ thẩm số 116/2021/HSST ngày 29/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố L. Hình phạt chung bị cáo phải chấp hành là 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 20/4/2021. [2] Về án phí sơ thẩm Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. [3] Về quyền kháng cáo Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 68/2022/HSST

Số hiệu:68/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về