Bản án về tội trộm cắp tài sản số 65/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ CHÂU - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 65/2022/HS-ST NGÀY 16/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16/9/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 49/2022/TLST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2022/QĐXXST- HS ngày 05 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo: Cao Văn H, tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1990 tại huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Nơi cư trú: Thôn HV, xã DN, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch:

Việt Nam; Con ông: Cao Xuân H và bà Nguyễn Thị C; Có vợ là Vang Thị H1 và 01 con; Tiền án: Năm 2015, bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình xử phạt 07 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt vào ngày 13/12/2019; Tiền sự: Không; Nhân thân: - Năm 2006, bị Chủ tịch UBND huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình ra Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng trong thời hạn 24 tháng - Ngày 13/5/2022, bị Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình xử phạt 04 năm 06 tháng tù về các tội “Cướp giật tài sản” và “Trộm cắp tài sản”; Bị cáo hiện đang chấp hành án tại Trại giam Bình Điền - Bộ Công an. Có mặt.

- Bị hại: Cháu Vi Kim O. Sinh năm 2010. Trú tại: Bản ChB, xã CT, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

- Người đại diện theo pháp luật của bị hại: Anh Vi Văn L. Sinh năm 1988.

Trú tại: Bản CB, xã CT, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 03 giờ ngày 13/12/2021, trong khi đang ngủ tại nhà vợ (Chị Vang Thị H1) tại bản CB, xã CT, huyện Quỳ Châu thì H tỉnh dậy đi về sinh và sau đó nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của người khác để sử dụng. Do biết trước tại nhà chị Lương Thị Th (trú cùng bản) có chiếc điện thoại di động thông minh nên H đã đi bộ đến nhà chị Th. Khi đến nhà chị Th thì H nhìn thấy cửa bếp không khóa nên đã đi đến mở cửa rồi đi vào bên trong nhà. Khi đi đến phòng ngủ thì H nhìn thấy cháu Vi Kim O và một cháu nữa là các con của chị Th đang nằm ngủ. Hòe quan sát xung quanh thì thấy phía đầu giường ngủ của hai cháu bé có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ViVo nên đã lén lút đến lấy chiếc điện thoại trên rồi quay ra ngoài. Khi vừa ra đến cửa thì cháu O tỉnh dậy và hét lên nên H cầm chiếc điện thoại bỏ chạy ra ngoài rồi về nhà vợ. Khi về đến nhà thì H tắt nguồn điện thoại và cất giấu vào chuồng gà rồi đi ngủ. Ngày 14/12/2021, cháu Vi Kim O đã có đơn trình báo gửi Công an xã CT, huyện Quỳ Châu. Cùng ngày 14/12/2021, Cao Văn H đã đến đầu thú tại Công an xã CT, giao nộp lại chiếc điện thoại và khai báo toàn bộ hành vi phạm tội. Ngày 26/12/2021, Cao Văn H bị Cơ quan điều tra Công an huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình bắt về các hành vi “Trộm cắp tài sản” và “Cướp giật tài sản”.

Tại bản Kết luận định giá số 31/KL-HĐĐGTS ngày 20/12/2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Quỳ Châu kết luận: “01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ViVo màu xanh đen có trị giá 1.800.000đ (Một triệu, tám trăm nghìn đồng); 01 chiếc ốp lưng điện thoại ViVo bằng nhựa có trị giá 5.000đ (Năm nghìn đồng) ”.

Quá trình điều tra, cơ quan điều tra Công an huyện Quỳ Châu đã thu giữ và trả lại chiếc điện thoại nói trên cho cháu Vi Kim O.

Bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại trình bày như nội dung đã nêu và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.

Cáo trạng số 53/CT-VKS-HS ngày 14/5/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Châu đã quyết định truy tố Cao Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện VKS thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như nội dung Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 - khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS. Xử phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo. Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung truy tố của Cáo trạng và không có ý kiến gì trong phần tranh luận. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Quỳ Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2] Về sự vắng mặt của bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại. Tuy nhiên, quá trình điều tra đã có đầy đủ lời khai của người này và được công bố tại phiên tòa. Xét thấy, việc vắng mặt những người này không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án tại phiên tòa. Căn cứ Điều 292 BLTTHS Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt cháu Vi Kim O và anh Vi Văn L.

[2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau: Rạng sáng ngày 13/12/2021, tại nhà của chị Lương Thị Th ở bản CB, xã CT, huyện Qùy Châu, tỉnh Nghệ An bị cáo đã có hành vi trộm cắp của con gái chị Th (Cháu Vi Kim O) một chiếc điện thoại nhãn hiệu ViVo cùng ốp lưng điện thoại gây thiệt hại với tổng số tiền 1.805.000đ. Sau khi biết hành vi trộm cắp của mình đã bị phát hiện nên ngày 14/12/2021 bị cáo đã đến đầu thú tại Công an xã CT, huyện Qùy Châu, giao nộp lại chiếc điện thoại và khai báo hành vi phạm tội.

Thấy rằng lời khai của bị cáo tại phiên tòa và trong quá trình điều tra là thống nhất với nhau, phù hợp với lời khai và các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa. Bị cáo đã có hành vi chiếm đoạt trái phép 01 chiếc điện thoại có ốp lưng bằng nhựa gây thiệt hại 1.805.000đ. Mặc dù giá trị tài sản bị chiếm đoạt có tổng trị giá dưới 2.000.000đ nhưng bị cáo đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích. Như vậy, bị cáo Cao Văn Hòe đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS đúng như nội dung truy tố của Cáo trạng.

[2.2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo có đủ nhận thức để biết rằng tài sản của người khác là bất khả xâm phạm. Vì bản thân lười lao động nên bị cáo đã có hành vi chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác nhằm phục vụ cho mục đích chơi bời, tiêu xài cá nhân. Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây mất an ninh trật tự trên địa bàn và gây bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân. Bản thân bị cáo đã nhiều lần bị các Tòa án xét xử về các hành vi chiếm đoạt trái phép tài sản. Vì vậy, cần phải xử phạt nghiêm và lên cho bị cáo một mức hình phạt tương xứng nhằm răn đe, cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có đủ điều kiện giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện, có ích cho gia đình và xã hội.

Ngày 13/5/2022, Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình xử phạt Cao Văn H 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù về các tội “Cướp giật tài sản” và “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 29/2022/HSST và nay Bản án này đã có hiệu lực pháp luật. Cần áp dụng khoản 1 Điều 56 BLHS để tổng hợp hình phạt chung với Bản án này.

Tuy nhiên, xét cho bị cáo, quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ thái độ biết ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã ra đầu thú tại cơ quan có thẩm quyền. Đó là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 - khoản 2 Điều 51 BLHS để xem xét giảm nhẹ phần nào về hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[2.3] Hình phạt bổ sung: Bị cáo có điều kiện kinh tế khó khăn và không có tài sản. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[2.4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã được nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm. Vì vậy nên miễn xét.

[3] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 - khoản 2 Điều 51;

Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt Cao Văn H 09 (Chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 56 BLHS. Tổng hợp với hình phạt 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù về các tội “Cướp giật tài sản” và “Trộm cắp tài sản” của bản án số 29/2022/HSST ngày 13/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai Bản án là 05 (Năm) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/12/2021.

- Căn cứ vào điều 136 BLTTHS và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

Buộc Cao Văn H phải chịu 200.000đ án phí HSST.

- Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại và người đại diện theo pháp luật được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 65/2022/HS-ST

Số hiệu:65/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về