Bản án về tội trộm cắp tài sản số 54/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐƠN DƯƠNG, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 54/2022/HS-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27/9/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 52/2022/HSST ngày 14/9/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2022/QĐXXST-HS ngày 15/9/2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Duy Nh; Tên gọi khác: không có; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 02/12/1993 tại Lâm Đồng; Hộ khẩu thường trú: Thôn QH, xã QL, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Nghề nghiệp: Làm nông; Con ông: Bùi X, sinh năm 1959; Con bà Lê Thị Thu A, sinh năm 1961. Hiện ở: Thôn QH, xã QL, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng; Có 04 chị em, lớn nhất sinh năm 1983, bị cáo là con nhỏ nhất trong gia đình; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Nh thân: Bản án số 54/2017/HSST ngày 21/11/2017, Tòa án Nh dân huyện Đơn Dương xử phạt Bùi Duy Nh 12 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”; Ngày 08/5/2013, Công an huyện Đơn Dương ra Quyết định xử phạt hành chính với số tiền 750.000đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Ngày 13/12/2013, Ủy ban Nh dân huyện Đơn Dương ra Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy với thời hạn 24 tháng; Ngày 28/8/2017, Công an huyện Đơn Dương ra Quyết định xử phạt hành chính với số tiền 750.000đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 22/6/2022 đến ngày 01/7/2022.

Bị cáo Bùi Duy Nh hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại thôn QH, xã QL, huyện Đơn Dương, Lâm Đồng. Có mặt.

- Bị hại: Bà Lương Thị Ph, sinh năm 1978; Nơi cư trú: Thôn QH, xã QL, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị Xuân Lệ Th; Sinh năm 1973; Nơi cư trú:Thôn QH, xã QL, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

2. Anh Bùi Huy H; Sinh năm 1996; Nơi cư trú:Thôn QH, xã QL, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

3. Bà Nguyễn Thị H; Sinh năm 1966; Nơi cư trú:Thôn QH, xã QL, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

4. Ông Nguyễn L; Sinh năm 1953; Nơi cư trú:Thôn QH, xã QL, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 5 giờ 30 phút ngày 20/06/2022, Bùi Duy Nh đi bộ đến nhà người bạn ở thôn QH, xã QL chơi. Trên đường đi, Nh đi ngang qua nhà bà Lương Thị Ph ở cùng thôn thấy nhà bà Ph cửa chính mở, bà Ph đang ở dưới bếp. Nh nảy sinh ý định đột nhập vào nhà bà Ph để tìm kiếm tài sản lấy trộm nên Nh đi vào nhà và đứng sau cánh cửa phòng ngủ chờ bà Ph đi làm. Khoảng một lúc sau, bà Ph đi làm khóa hết cửa nhà thì Nh đi đến tủ gỗ trong phòng ngủ kéo ngăn tủ phát hiện 02 (hai) thiệp mời đám cưới bên trong có tiền với nhiều mệnh giá khác nhau. Nh cầm lấy số tiền trên bỏ vào túi áo trước ngực còn 02 (hai) phong bì bỏ vào vị trí cũ trong tủ, Nh phát hiện một chùm chìa khóa trong tủ nên Nh lấy ra 02 (hai) chìa khóa đi ra phòng khách mở cửa chính rồi khóa cửa lại rồi trèo qua cửa cổng đi ra ngoài về nhà. Khi về đến nhà, Nh lấy ra số tiền trộm cắp đếm được số tiền 12.600.000 đồng (Mười hai triệu sáu trăm ngàn đồng), 02 (hai) chìa khóa Nh lấy ở nhà bà Ph thì Nh để trên đầu giường nhà mình. Số tiền trộm cắp được Nh đến quán tạp hóa của bà Nguyễn Thị H và quán tạp hóa của ông Nguyễn L mua card nạp vào điện thoại số tiền 1.080.000 đồng (Một triệu không trăm tám mươi ngàn đồng) đồng thời nhờ bà Nguyễn Thị Lệ Xuân Thương chuyển vào số tài khoản của Nh với số tiền 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm ngàn đồng) và số tài khoản của Bùi Huy H với số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng). Sau đó, Nh gặp Hoàn nhờ rút số tiền trên, số tiền trộm cắp được Nh đã tiêu xài cá Nh hết.

Cáo trạng số 50/CT-VKS-ĐD ngày 14/9/2022, Viện kiểm sát Nh dân huyện Đơn Dương truy tố bị cáo Bùi Duy Nh về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên bản cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bùi Duy Nh phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Bùi Duy Nh mức án từ 12 đến 15 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Bị cáo không khiếu nại bản cáo trạng, khai nhận: Vào ngày 20/6/2022, bị cáo đột nhập vào nhà bà Lương Thị Ph ở thôn Quảng Lợi, xã QL, huyện Đơn Dương lấy trộm được số tiền 12.600.000đ như cáo trạng đã nêu. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đơn Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đơn Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Vào sáng ngày 20/6/2022, Bùi Duy Nh đã có hành vi lén lút, đột nhập vào nhà bà Lương Thị Ph ở thôn QH, xã QL, huyện Đơn Dương lấy trộm số tiền 12.600.000 đồng (Mười hai triệu sáu trăm ngàn đồng) là vi phạm pháp luật.

Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, lời khai bị hại, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận: Hành vi lén lút chiếm đoạt số tiền của người khác có giá trị là 12.600.000 đồng nêu trên của Bùi Duy Nh đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đơn Dương đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Đánh giá tính chất vụ án: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, bị cáo biết việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn có tiền tiêu xài nên vẫn thực hiện. Xét tính chất, mức độ do hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, thể hiện tính liều lĩnh, coi thường pháp luật. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt tù về hành vi cưỡng đoạt tài sản và bị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có thời gian cải tạo, nhằm đảm bảo đấu tranh và phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại, được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo.

[5] Về vật chứng:

01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S, màu hồng gắn sim số 0394.17xxxx. Quá trình điều tra xác định điện thoại trên là của bị cáo Nh và không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Đơn Dương đã trả lại cho bị cáo Nh. (BL 52) 01 chìa khóa cửa bằng kim loại Việt Tiệp màu trắng và 01 chìa khóa kim loại ở mặt trước và sau tay cầm chìa khóa có dòng chữ SCAR và INFA màu trắng là của bà Lương Thị Ph nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Đơn Dương đã trả cho bà Ph (BL 53) Đối với 02 thiệp cưới trong đó 01 thiệp cưới có kích thước 13x18cm, bìa màu xanh và 01 thiệp cưới có kích thước 10x20cm là tang vật của vụ án nên lưu vào hồ sơ vụ án.(BL 51) [6] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bị cáo đã tự nguyện bồi thường số tiền 12.600.000 đồng cho bị hại. Sau khi nhận số tiền trên bà Ph không yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[8] Đối với Nguyễn Thị Xuân Lệ Th chuyển tiền vào số tài khoản của Nh, Nguyễn Thị H, Nguyễn L bán thẻ cào điện thoại cho Nh, Bùi Huy H rút số tiền trong tài khoản cho Nh. Khi thực hiện hành vi thì những người này không biết số tiền Nh sử dụng là do trộm cắp mà có nên không có căn cứ xử lý trách nhiệm hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Duy Nh phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Duy Nh 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 22/6/2022 đến ngày 01/7/2022 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Bùi Duy Nh phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

106
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 54/2022/HS-ST

Số hiệu:54/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đơn Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về