Bản án về tội trộm cắp tài sản số 470/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ

BẢN ÁN 470/2022/HS-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 428/2022/TLST-HS ngày 19 tháng 9 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 460/2022/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trịnh Minh T, sinh 2000 tại tỉnh T;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ dân phố Giáp Thượng 2, phường H, thị xã H, tỉnh T.

Chỗ ở hiện hay: ấp Xóm Gốc, xã L, huyện L, tỉnh Đ Nghề nghiệp: Công nhân ; Trình độ học vấn: Lớp 12/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Trịnh P, sinh năm 1972 và con bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1975;

Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất và chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị bắt ngày 04/6/2022.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B.

- Bị hại: Bùi Xuân Nhật H, sinh năm 1999.

Đa chỉ; số K3/336, khu phố 1, phường B, thành phố B, tỉnh Đ.

(Bị cáo có mặt, chị H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ ngày 03/6/2022, Trịnh Minh T đi bộ đến trước căn nhà của chị Bùi Xuân Nhật H, sinh năm 1999; tại địa chỉ số K3/336, khu phố 1, phường B, thành phố B, tỉnh Đ thấy không đóng cửa nên đột nhập vào trộm cắp một cái túi vải bên trong có số tiền 262.000 đồng và 01 máy tính hiệu Asus Vivo Book, model A412F, core i3- 8145U để trên bàn rồi tẩu thoát. Sau khi lấy được tài sản, T thuê xe taxi (không rõ hãng, biển số xe taxi) chở đến khu vực ngã ba Vũng Tàu thuộc phường Long Bình Tân, thành phố B để bán tài sản nhưng không được, T lấy 70.000 đồng (bảy mươi ngàn đồng) trong túi vải trộm cắp được để trả tiền taxi. T tiếp tục thuê xe ôm công nghệ Grab của anh Lê Quang Anh, sinh năm 1995, hộ khẩu thường trú khu phố Long Đức 1, phường Tam Phước, thành phố B chở đến tiệm mua bán máy tính “Quang Mậu” của anh Lương Hữu T, sinh năm 1986 làm chủ, tại địa chỉ khu phố 6, phường Tam Hiệp, thành phố B để bán máy tính. Anh Lương Hữu T kiểm tra máy tính hiệu Asus Vivo Book, model A412F, core i3- 8145U, nghi ngờ do T trộm cắp mà có nên hỏi T về nguồn gốc máy tính thì T hoảng sợ giật lấy máy tính bỏ chạy. Anh Lương Hữu T cùng anh Lê Quang Anh đuổi theo bắt giữ T, đồng thời trình báo Công an phường Tam Hiệp.Tại Cơ quan điều tra, T thừa nhận hành vi phạm tội như trên.

Vật chứng thu giữ và xử lý: 01 máy tính xách tay hiệu Asus Vivo Book model A412F core i3- 8145U, ram 4GB, HHD 500 GB; 01 túi vải bên trong có 192.000đ (một trăm chín mươi hai nghìn đồng) thuộc sở hữu hợp pháp của chị Bùi Xuân Nhật H, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho chị Bùi Xuân Nhật H.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 213/TCKH-HĐĐG ngày 07/06/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận 01 máy tính xách tay hiệu Asus Vivo Book core i3- 8145U, ram 4GB, HHD 500 GB có trị giá 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng).

Về trách nhiệm dân sự: Chị Bùi Xuân Nhật H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường về dân sự.

Tại Bản cáo trạng số 456/CT-VKSBH ngày 16 tháng 9 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Trịnh Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng nêu. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai trái, vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố bị cáo Trịnh Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo từ 08 tháng đến 10 tháng tù giam.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại đối với hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. [2] Về nội dung vụ án:

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận vào khoảng 19 giờ ngày 03/6/2022, bị cáo đột nhập vào nhà của chị Bùi Xuân Nhật H, tại địa chỉ số K3/336, khu phố 1, phường B, thành phố B tỉnh Đ trộm cắp số tiền 262.000 đồng; 01 máy tính xách tay hiệu Asus Vivo Book, model A412F, core i3- 8145U, ram 4GB, HHD 500 GB có giá trị 6.000.000 đồng. Tổng trị giá tài sản trộm cắp là 6.262.000 đồng (sáu triệu hai trăm sáu mươi hai nghìn đồng).

[3] Về tội danh:

Xét thấy, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.

[4] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân, xâm phạm đến trật tự trị an xã hội tại địa pH. Do đó, cần phải có mức hình phạt phù hợp, có tác dụng giáo dục răn đe bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phạm vào tình tiết tái phạm quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét thấy, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về phần dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường nên không ra xem xét giải quyết.

[8] Về vấn đề khác: Vật chứng đã xử lý xong nên không đặt ra xem xét giải quyết; 01 USB hiệu Ahua Tech Nology màu bạc đã được niêm P lưu hồ sơ vụ án.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

[10] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ các Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Tuyên bố bị cáo Trịnh Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trịnh Minh T 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/6/2022.

2. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ được tống đạt hợp lệ bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

505
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 470/2022/HS-ST

Số hiệu:470/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về