Bản án về tội trộm cắp tài sản số 42/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN ĐỘNG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 42/2021/HS-ST NGÀY 21/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 21 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 42/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 12 năm 2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng T, sinh năm 2000; Giới T: Nam; Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Thôn A, xã T, huyện S, tỉnh Bắc Giang; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Cao Lan; Tôn giáo: Không; Chức vụ, đoàn thể, Đảng phái: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Con ông Hoàng Văn L9 và bà Hoàng Thị H9; Vợ con: Chưa có.

Tiền sự: Bị cáo bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số: 03/QĐ-TA ngày 21 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang.

Tiền án: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/9/2021 dến ngày 18/9/2021 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại (Có mặt).

* Bị hại: Bà Hoàng Thị T1, sinh năm 1962 (Có mặt).

Địa chỉ: Thôn A, xã T, huyện S, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 30 phút, ngày 04 tháng 9 năm 2021, Hoàng T, sinh năm 2000 trú tại thôn A, xã T, huyện S, tỉnh Bắc Giang đi ra vườn và quan sát thấy gia đình nhà bà Hoàng Thị T1, sinh năm 1962 ở cùng thôn (liền kề với nhà của T) không có ai ở nhà nên T đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của nhà bà T1, thực hiện ý định trên, T đã trèo qua tường rào (tường ngăn vách giữa nhà T và nhà bà T1) để sang nhà bà T1, T thấy 01 thanh kim loại màu đen, có chiều dài 44,5cm, chiều rộng 3,7cm, dày 1 cm gần bờ tường rào nên T đã cầm thanh kim loại đó đi ra phía sau nhà bà T1 và dùng thanh kim loại trên cạy cửa phụ (loại cửa gỗ). Sau khi cạy được cửa, T đi vào trong nhà tìm tài sản có giá trị để trộm cắp, tuy nhiên không tìm được tài sản gì có giá trị nên T quay lại phòng khách thì phát hiện 01 (một) tủ gỗ được kê sát tường có 02 (hai) cánh, sau đó T mở cánh tủ phía bên trái không khóa, T lục soát bên trong không phát hiện tài sản gì, T thấy cánh tủ bên phải khóa nên đi xuống bếp nhà bà Tẩng phát hiện 01 (một) con dao (dạng dao quắm) bằng kim loại, dài 51cm, bản rộng 4cm có ốp bằng nhựa màu đen, nên T đã lấy con dao đó cạy cánh tủ bên phải. Sau khi cạy được và mở cánh tủ bên phải T phát hiện bên trong có 01 (một) túi xách màu xanh, khi mở túi xách T phát hiện bên trong có 01 (một) chiếc ví màu hồng có khóa nên T đã mở chiếc ví ra thì phát hiện bên trong ví có tiền nên T đã lấy một phần số tiền bên trong và để lại một phần tiền ở ví. Sau khi lấy tiền xong, T để số tiền vừa trộm cắp được vào túi quần rồi để ví và túi xách lại chỗ cũ và khép cánh tủ lại và bỏ lại con dao cạy tủ ở nhà bà T1 và đi về nhà. Sau đó T đón xe buýt đi thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang, trong lúc đứng đợi xe buýt T lấy số tiền vừa trộm cắp ra đếm được số tiền là 5.400.000đ (năm triệu bốn trăm nghìn đồng). Sau đó T đi xe buýt đến thành phố Bắc Giang chơi và chi tiêu hết số tiền trên.

Cùng ngày 04/9/2021, sau khi đi làm về, bà Hoàng Thị T1 phát hiện bị kẻ gian đột nhập trộm cắp tiền nên đã điện thoại trình báo Công an xã Tuấn Đạo, huyện Sơn Động.

Đến 16 giờ 00 phút ngày 15 tháng 9 năm 2021, Hoàng T đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Sơn Động đầu thú.

Tại Cơ quan điều tra Hoàng T đã thành khẩn khai nhận hành vi trộm cắp số tiền nêu trên.

Bản Cáo trạng số 37/CT-VKS-SĐ ngày 22/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Động truy đã tố bị cáo Hoàng T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Hoàng T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố.

Bà T1 đề nghị xử phạt bị cáo T theo quy định của pháp luật, buộc bị cáo T phải bồi thường cho bà số tiền 5.400.000 đồng và không đề nghị được xin lại con dao (dạng dao quắm) bằng kim loại, dài 51cm, bản rộng 4cm, có ốp nhựa màu đen.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Động giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích T chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Hoàng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Hoàng T từ 08 tháng tù đến 10 tháng tù. Thời hạn tù T từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án nhưng được trừ đi số ngày bị tạm giữ từ ngày 15/9/2021 đến ngày 18/9/2021.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, Điều 585, Điều 589 Bộ luật dân sự; Điều 48 Bộ luật hình sự. Buộc bị cáo Hoàng T phải bồi thường bà Hoàng Thị T1 số tiền 5.400.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) con dao (dạng dao quắm) bằng kim loại, dài 51cm, bản rộng 4cm, có ốp nhựa màu đen; 01 (một) thanh kim loại dài 44,5cm, rộng 3,7cm, dày 1cm.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí: miễn án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, phù hợp với lời khai của bị hại và vật chứng thu giữ cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 04 tháng 9 năm 2021, Hoàng T đã có hành vi trộm cắp số tiền 5.400.000đ (Năm triệu bốn trăm nghìn đồng) của bà Hoàng Thị T1 ở thôn A, xã T, huyện S, tỉnh Bắc Giang sau đó đi chi tiêu cá nhân hết.

Như vậy hành vi của Hoàng T cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Bản Cáo trạng số 37/CT-VKS-SĐ ngày 22/11/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sơn Động và bản Luận tội của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sơn Động tại phiên tòa đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và không oan đối với bị cáo.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự công cộng, gây hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân. Với hành vi phạm tội của bị cáo, sau khi được phân tích và đánh giá T chất, mức độ của hành vi bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng đối với bị cáo một hình phạt theo Bộ luật hình sự mới có tác dụng giáo dục bị cáo.

[4] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy:

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, ngày 21 tháng 5 năm 2021 bị cáo bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số: 03/QĐ-TA của Tòa án nhân dân huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Sau khi phạm tội đã ra đầu thú nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo là lao động tự do, không có công việc và thu nhập ổn định, là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[6] Xét tính chất vụ án, mức độ và hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ điều kiện để cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bà Hoàng Thị T1 yêu cầu bị cáo phải bồi thường bà số tiền 5.400.000 đồng mà bị cáo đã chiếm đoạt. Xét thấy đây là số tiền bị cáo T đã chiếm đoạt của bà T1 nên cần buộc bị cáo Hoàng T phải bồi thường cho bà Hoàng Thị T1 5.400.000 đồng.

[8] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) con dao (dạng dao quắm) bằng kim loại, dài 51cm, bản rộng 4cm, có ốp nhựa màu đen là tài sản của bà T1 và tại phiên tòa bà T1 cũng không đề nghị được xin lại; Đối với 01 (một) thanh kim loại dài 44,5cm, rộng 3,7cm, dày 1cm và là công cụ sử dụng vào việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Về án phí: Do bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn nên cần miễn án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Hoàng T 08 (Tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù T từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ đi số ngày bị tạm giữ từ ngày 15/9/2021 đến ngày 18/9/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo Hoàng T.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, Điều 585, Điều 589 Bộ luật dân sự; Điều 48 Bộ luật hình sự. Buộc bị cáo Hoàng T phải bồi thường bà Hoàng Thị T1 số tiền 5.400.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015. Trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) con dao (dạng dao quắm) bằng kim loại, dài 51cm, bản rộng 4cm, có ốp nhựa màu đen; 01 (một) thanh kim loại dài 44,5cm, rộng 3,7cm, dày 1cm.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí: miễn án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm cho bị cáo.

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 42/2021/HS-ST

Số hiệu:42/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Động - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về