Bản án về tội trộm cắp tài sản số 36/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH HÀ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 36/2022/HS-ST NGÀY 25/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 32/2022/TLST- HS ngày 05 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2022/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2022, đối với bị cáo:

TRỊNH XUÂN H, sinh năm 1994 tại xã C, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương; nơi cư trú: Thôn V, xã C, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Xuân H1 và bà Đặng Thị T; vợ là Nguyễn Thị N; Tiền án: Chưa; tiền sự: Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 26/2019 ngày 02/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Hà, thời hạn 20 tháng chấp hành xong ngày 04/02/2021. Quyết định xử phạt hành chính số 215 ngày 22/12/2021 của Công an huyện Thanh Hà, phạt tiền 1.000.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản, nộp tiền ngày 29/12/2021; Quyết định xử phạt hành chính số 11 ngày 14/01/2022 của Công an huyện Thanh Hà, phạt tiền 1.000.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản, nộp tiền phạt ngày 21/01/2022.

Bị cáo bị tạm giam tại trại giam Kim Chi - Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 15/3/2022; Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1996; cư trú tại: Thôn L, xã H, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. (Vắng mặt tại phiên tòa)

- Người làm chứng: chị Nguyễn Thị N (có mặt); chị Lê Thị T2; chị Trịnh Thị N2; anh Đỗ Minh C2 (Đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ, ngày 17/02/2022, Trịnh Xuân H sau khi mua nước uống tại quán bán hàng tạp hóa LT, ở thôn Đ, xã Q, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. H phát hiện thấy xe máy SH màu đen, BKS 34B3-405xx của chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1976; cư trú tại thôn L, xã H, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương dựng ở cửa quán không khóa cốp xe máy, H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. H đã mở cốp xe lấy 01 hộp bằng giấy cứng màu đỏ rồi đi sang phía bên đường, đối diện quán tạp hóa LT. Tại đây H mở hộp giấy, bên trong có 01 sợi dây chuyền kim loại màu vàng chế tác dạng các mặt xích nối với nhau, móc khóa hình chữ S, mặt dây chuyền kim loại màu vàng có hoa văn; 01 sợi dây chuyền kim loại màu vàng, trắng chế tác dạng hình xoắn, mặt dây chuyền kim loại màu vàng, trắng ở giữa có 02 chữ C ngược nhau có gắn các viên đá nhỏ không màu; 01 mặt dây chuyền vàng ta 9999 hình chữ H đường kính khoảng 2cm có đính đá không màu; 01 mặt dây chuyền vàng ta 9999 hình có 04 lá kích thước 02x02cm có đính đá màu đen. H lấy số vàng trên cho vào túi áo đang mặc rồi vứt chiếc hộp bằng giấy xuống sông, sau đó H đi về nhà lấy xe máy nhãn hiệu Honda Ariblade, BKS 34B4-582.xx của chị Nguyễn Thị N (vợ bị cáo) điều khiển đến cửa hàng vàng bạc PH địa chỉ xã T, huyện Thanh Hà do chị Trịnh Thị N2 làm chủ. Tại đây H bán 02 mặt dây chuyền được số tiền 10.600.000 đồng, đã tiêu sài cá nhân hết còn 02 sợi dây chuyển H giữ lại.

Sau khi phát hiện mất tài sản, chị T đã trình báo Công an, ngày 21/02/2022 H đã tự nguyện giao nộp 02 sợi dây chuyền.

Tại kết luận định giám định số 1081/KL - HĐGTS ngày 28/02/2022 của Viện khoa học hình sự và kết luận định giá tài sản số 07 ngày 07/3/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương kết luận:

- 01 sợi dây chuyền kim loại màu vàng chế tác dạng mắt xích nối với nhau, móc khóa hình chữ s, mặt dây chuyền bằng kim loại màu vàng có hoa văn, có tổng khối lượng 10,40 gam là vàng(Au) trị giá 14.782.000 đồng.

- 01 sợi dây chuyền kim loại màu vàn g, trắng chế tác hình dạng xoắn; mặt dây chuyền kim loại màu vàng, trắng ở giữa có 02 chữ C ngược nhau có gắn các viên đá nhỏ không màu, tổng khối lượng 12.01gam (tính cả khối lượng đá) là hợp kim vàng(Au) có giá trị 12.380.000 đồng - 01 mặt dây chuyền vàng ta 9999 hình tròn chữ H đường kình khoảng 02cm có đính đá không màu, khối lượng 3.75gam (01 chỉ) có giá trị 5.330.000 đồng.

- 01 mặt dây chuyền vàng ta 9999 hình có bốn lá, kích thước khoảng 02x02cm có đính đá màu đen khối lượng 3,75gam(01 chỉ) có giá trị 5.330.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 30/CT-VKS ngày 04/5/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Trịnh Xuân H về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương giữ nguyên quyết định truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử (viết tắt HĐXX) áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự (viết tắt BLHS); Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự (viết tắt BLTTHS). Đề nghị xử phạt bị cáo Trịnh Xuân H từ 24 đến 27 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 15/3/2022; Hình phạt bổ sung, trách nhiệm dân sự; vật chứng: không giải quyết. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Hà, Kiểm sát viên tron g quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17 giờ, ngày 17/02/2022, Lợi dụng sơ hở của chị Th không khóa cốp xe. Trịnh Xuân H lén lút mở cốp xe máy SH màu đen, BKS 34B3-40xx dựng ở trước cửa hàng tạp hóa LT; địa chỉ thôn Đ, xã Q, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương để chiếm đoạt 02 sợi dây chuyền vàng và 02 mặt dây chuyền vàng, Tổng trị giá tài sản 37.822.000 đồng (Ba mươi bẩy triệu tám trăm hai mươi hai nghìn đồng).

Bị cáo Trịnh Xuân H có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Vì tham lam tư lợi, đã thực hiện với lỗi cố ý, thủ đoạn thực hiện táo bạo. Hành vi bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của n gười khác được pháp luật bảo vệ. Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân:

- Tình tiết tăng nặng: Không - Nhân thân: Thời gian năm 2019, 2021, 2022 bị cáo bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản chưa được xóa tiền sự. Cần quyết định mức áp nghiêm buộc bị cáo cách ly xã hội để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt biết chấp hành và tôn trọng pháp luật.

- Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội; đã tác động gia đình bồi thường xong cho bị hại, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản; không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường. HĐXX không giải quyết.

[6] Về xử lý vật chứng: Chiếc xe Airblade, BKS 34B4-582.xx đăng ký sở hữu tên Nguyễn Thị N, chị N không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện liên quan đến tội phạm. Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị N là phù hợp pháp luật.

[7] Các vấn đề khác:

Chị Trịnh Thị N2 – Chủ cửa hàng vàng PH là người mua 02 mặt dây chuyền của bị cáo. Khi mua bán, chị N2 không biết tài sản do H trộm cắp mà có nên không đủ căn cứ xử lý. Số vàng trên chị N2 đã bán cho khách hàng không xác định được tên, tuổi địa chỉ nên không thu giữ được.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự; Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật án phí, lệ phí Tòa án; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

[1]. Tuyên bố bị cáo Trịnh Xuân H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[2]. Xử phạt Trịnh Xuân H 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 15/3/2022.

[3]. Về án phí: Bị cáo Trịnh Xuân H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[4]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trịnh Xuân H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 25/5/2022. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc được niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

54
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 36/2022/HS-ST

Số hiệu:36/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Hà - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về