Bản án về tội trộm cắp tài sản số 35/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 35/2023/HS-PT NGÀY 06/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 3 năm 2023, tại Hội trường Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa phúc thẩm công khai xét xử vụ án hình sự thụ lý số 06/2023/HSPT ngày 05 tháng 01 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Đức V, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 56/2022/HS-ST ngày 30/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.

* Bị cáo kháng cáo:

Nguyễn Đức V; giới tính: Nam; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 12 tháng 02 năm 2004 tại huyện C, tỉnh Hà Tĩnh; nơi đăng ký HKTT và chổ ở: Thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Thanh H và bà Trần Thị L; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 28/7/2022 đến nay tại xã C, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh hiện có mặt tại phiên tòa.

* Những người tham gia tố tụng khác có kháng cáo hoặc liên quan đến kháng cáo: Không 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm t t như sau:

Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 24/5/2022, khi đi đến trường trung học phổ thông C để dự thi thử kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông, Nguyễn Đức V phát hiện một số học sinh bỏ điện thoại lại trong cốp xe hoặc trong cặp treo ở xe bỏ ngoài nhà xe nên V nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Vào khoảng 15 giờ 20 phút cùng ngày, V nói dối đau bụng và xin giáo viên coi thi ra khỏi phòng thi, và đi đến khu vực để xe lấy trộm 04 chiếc điện thoại rồi đi ra cất dấu tại khu vực nhà vệ sinh bỏ hoang của Trường trung học phổ thông C, sau đó V đi lên phòng tiếp tục thi. Sau khi thi xong, các học sinh gồm Nguyễn Như Hoài B, Nguyễn Thị Thu H1, Đặng Hoàng L và Trần Thị Thanh H2 xuống nhà xe phát hiện bị mất trộm điện thoại đã đến trình báo với thầy giáo Trần Xuân T - Bí thư Đoàn của nhà trường. Nguyễn Như Hoài B sau khi về nhà, đã nhờ anh Nguyễn Đình T1 kiểm tra định vị điện thoại thì phát hiện vị trí chiếc điện thoại của mình ở khu vực nhà vệ sinh của trường học nên đã cùng Nguyễn Đình T1 đi đến tìm kiếm và lấy lại được hai chiếc điện thoại, B cất điện thoại của mình còn chiếc điện thoại còn lại, B đưa đên giao nộp cho anh Nguyễn Thanh H3- Bảo vệ của nhà trường rồi đi về. Anh Nguyễn Thanh H3 sau khi nhận được điện thoại từ B, đã báo cáo và giao nộp cho thầy Trần Xuân T. Sau khi nhận chiếc điện thoại, xác định Trần Thị Thanh H2 là chủ sở hữu nên thầy T đã trả lại cho H2. Cùng thời gian này, sau khi thấy mọi người về hết, V đi đến gần cổng phụ sau trường, trèo hàng rào vào đến chỗ cất dấu điện thoại lúc trước lấy được 02 chiếc điện thoại đem về gần cầu L thuộc địa phận xã C cất giấu rồi về nhà. Sau đó bị Công an huyện C triệu tập lên làm việc, V đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình và giao nộp 02 chiếc điện thoại đã lấy trộm được.

- Tại bản kết luận định giá số 22/KL-HDĐG ngày 07/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản kết luận tổng giá trị số điện thoại bị cáo Nguyễn Đức V lấy trộm được của 04 bị hại là 20.610.000 đồng (Hai mươi triệu sáu trăm mười nghìn đồng).

- Về thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:

+ 01 (Một) điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone 8 plus, màu trắng, đã qua sử dụng, đã trả cho Trần Thị Thanh H2.

+ 01 (Một) điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone XS Max, màu đen, đã qua sử dụng, đã trả cho Nguyễn Như Hài B1.

+ 01 (Một) điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone 8 plus, màu hồng đã qua sử dụng, đã qua sử dụng đã trả cho Đặng Hoàng L.

+ 01 (Một) điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone 6S plus, màu hồng đã qua sử dụng đã trả cho Nguyễn Thị Thu H1.

* Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, 04 người bị hại và người đại diện bị hại không yêu cầu bồi thường dân sự và có đơn xin giảm nhẹ hìnhợphạt cho bị cáo Nguyễn Đức V. Tại Bản án sơ thẩm số 56/2022/HSST ngày 30/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Khoản 1, Điều 173; Điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức V 08 (T2) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 09/12/2022, bị cáo Nguyễn Đức V kháng cáo bản án sơ thẩm xin giảm nhẹ hìnhợphạt và xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên toà phúc thẩm người kháng cáo vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết của vụ án có ý kiến: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e, khoản 1 Điều 357 BLTTHS chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm 56/2022/HS-ST ngày 30/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh theo hướng cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định nên hợp lệ được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 15 giờ 20 phút ngày 24/5/2022, tại khu vực nhà để xe Trường trung học phổ thông C, thuộc địa phận thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh, lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản của các chủ sở hữu, Nguyễn Đức V đã lén lút 04 (Bốn) chiếc điện thoại di động bao gồm: 01 (Một) chiếc điện thoại Iphone 8 Plus, màu trắng, 01 (Một) chiếc điện thoại Iphone XS Max, màu đen, 01 (Một) chiếc điện thoại Iphone 8 Plus, màu hồng và 01 (Một) chiếc điện thoại Iphone 6S của chị Trần Thị Thanh H2, anh Nguyễn Như Hoài B, chị Đặng Hoàng L và chị Nguyễn Thị Thu H1 với tổng giá trị là: 20.610.000 đồng (Hai mươi triệu sáu trăm mười nghìn đồng). Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; Bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên; Hội đồng xét xử sơ thẩm. Như vậy, bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo theo tội Trộm cắp tài sảnquy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, không oan sai.

[2.2]. Xét nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hìnhợphạt và xin được hưởng án treo của bị cáo, thấy:

Quá trình xét xử tại cấp sơ thẩm, hội đồng xét xử sơ thẩm đã xem xét toàn diện tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi của bị cáo, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tổng trị giá tài sản bị cáo đã chiếm đoạt để lên mức án tương xứng, đảm bảo tính răn đe giáo dục cũng như phòng ngừa chung. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, HĐXX xét thấy, bị cáo thời điểm phạm tội có tuổi đời còn rất trẻ (tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo mới đủ 18 tuổi). Hành vi phạm tội của bị cáo là nhất thời, bột phát, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Bị cáo có nhân thân tốt; có nơi cư trú rõ ràng; từ trước tới nay, bản thân bị cáo và gia đình luôn chấp hành tốt các nội quy, quy định tại địa phương; Sau khi xét xử sơ thẩm, gia đình bị cáo có đơn trình bày hoàn cảnh khó khăn, xin xem xét giảm nhẹ cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo. HĐXX phúc thẩm xét thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khởi đời sống xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo, cải tạo giáo dục tại địa phương là phù hợp và thể hiện được tính khoan hồng của Pháp luật. Vì vậy, HĐXX cần chấp nhận một phần nội dung kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức hìnhợphạt tù và cho bị cáo được hưởng án treo.

[3]. Về án phí: Bị cáo kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e, khoàn 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự xử:

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức V, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 56/2022/HS-ST ngày 30/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức V, phạm tội “Trộm cắp tài sản

Áp dụng Khoản 1, Điều 173; Điểm i, s khoản 1, 2, Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức V 08 (T2) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 16 tháng, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Đức V cho UBND xã C, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hìnhợphạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[2]. Về Án phí: Căn cứ điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

46
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 35/2023/HS-PT

Số hiệu:35/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về