Bản án về tội trộm cắp tài sản số 35/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ Q, TỈNH Q

BẢN ÁN 35/2022/HS-ST NGÀY 12/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 12 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Q, tỉnh Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 30/2022/HS-ST ngày 14/4/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2022/QĐXXST- HS ngày 29/4/2022 đối với bị cáo:

Hoàng Minh T Tên gọi khác: không. Sinh ngày 17/10/1993, tại thị xã Q, tỉnh Q. Nơi thường trú: khu 3 phường Q, thị xã Q, tỉnh Q. Họ và tên bố: Hoàng Minh V, sinh năm 1962, họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Kim P, sinh năm 1963. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh, tôn giáo: không. Trình độ văn hóa: 12/12, nghề nghiêp: tự do. Gia đình bị cáo có hai chị em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình. Vợ: Lê Thị D, sinh năm 1997 (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2016.

Tiền sự: không.

Tiền án: ngày 04/11/2020, Tòa án nhân dân thị xã Q, tỉnh Q xử phạt 12 (mười hai) tháng tù về tội “tàng trữ trái phép chất ma Ty”.

Bị cáo bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp ngày 10/02/2022, hiện tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Q có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: anh Phạm Tuấn Triều S, sinh năm 1989. Địa chỉ: khu 3, phường Q, thị xã Q, tỉnh Q.

- Người làm chứng:

Anh Nguyễn Mạnh T, sinh năm 1997 Nơi cư trú: khu M, phường X, thị xã Đ, tỉnh Q . Bà Nguyễn Thị Kim P, sinh năm 1963 Nơi cư trú: khu 3, phường Q, thị xã Q, tỉnh Q. Chị Nguyễn Thị Mai A, sinh năm 1999.

Nơi cư trú: thôn An Toàn, xã Quảng Đức, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.

Anh Nguyễn Xuân D, sinh năm 1993 Nơi cư trú: khu M, phường X, thị xã Đ, tỉnh Q. Chị Lê Thị P1, sinh năm 1995 Nơi cư trú: khu 3, phường Q, thị xã Q, tỉnh Q. Những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 00 giờ 30 phút ngày 10/02/2022, Hoàng Minh T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter BKS 14 X1 - xxx.09 đến đoạn đường thuộc thôn 1, xã Hiệp Hòa, thị xã Q thì gặp bạn tên là T (sinh năm 1995, nhà ở Vàng Danh, thành phố Uông Bí) đang đứng ở đường, T rủ T đi mượn xe để mang đi cầm cố lấy tiền tiêu thì T đồng ý. T chở T lên đoạn gầm cầu Sông Chanh và nói “mày ở đây chờ anh tí”, sau đó T đi bộ đến nhà anh Phạm Tuấn Triều S, sinh năm 1989; trú tại: khu 3, phường Q, thị xã Q thì thấy đèn trong nhà anh S vẫn sáng nên T nhắn tin cho chị Phượng (là người yêu của anh S) để hỏi thì biết anh S chưa ngủ nên T cùng T đi chơi đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 10/02/2022 thì quay lại khu vực gầm cầu Sông Chanh. T nói với T ở lại trông xe để T đi mượn xe. Sau đó, T một mình đi bộ về phía nhà anh S thì thấy bên trong nhà đã tắt điện. Do cổng nhà anh S không khóa nên T mở cổng đi vào, thấy tại sân có một xe mô tô nhiệu Honda Vision màu đen, đỏ BKS 36B6 - xxx.07, chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa xe nên T dắt chiếc xe mô tô trên ra khỏi cổng rồi nổ máy bỏ đi, anh S phát hiện T trộm cắp xe nên đã đuổi theo nhưng không đuổi kịp, T điều khiển xe mô tô đến nơi T đang đợi nói “đi em ơi”. Sau đó, T điều khiển xe mô tô vừa trộm cắp được đi trước, T điều khiển xe của T đi sau đi đến Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển, thành phố Uông Bí để gửi xe của T lại, rồi cả 2 cùng nhau điều khiển xe mô tô mà T lấy trộm đi về hướng thị xã Đông Triều để tìm chỗ cầm cố xe. Trên đường đi, T gọi điện cho bạn là anh Nguyễn Xuân D, sinh năm 1993, nhà ở khu M, phường X, thị xã Đ để nhờ tìm chỗ cầm cố xe nên anh D đã nhờ anh Nguyễn Mạnh T (là chú họ của D) cầm cố xe cho T với số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng). Sau đó, T cùng T đi Taxi về Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển, T cho T 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) rồi điều khiển xe mô tô của mình về nhà. Đến khoảng 08 giờ 00 phút cùng ngày, anh S đến tìm T để đòi xe nhưng T không trả nên anh S đã đến Công an thị xã Q tố trình báo.

Quá trình điều tra đã thu giữ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision màu đen - đỏ, BKS 36B6 - xxx07 do anh Nguyễn Xuân D giao nộp.

Bản kết luận định giá tài sản số 08/KL-ĐGTS, ngày 14/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản thị xã Q, kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA VISION, màu đen - đỏ, BKS 36B6-xxx.07 đã qua sử dụng trị giá 19.000.000đ (mười chín triệu đồng).

Tại Cơ quan điều tra, Hoàng Minh T khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, việc trộm cắp chiếc xe máy T không bàn bạc với T.

Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision màu đen - đỏ, BKS 36B6-xxx.07 cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Phạm Tuấn Triều S.

Về trách nhiệm dân sự: người bị hại anh Phạm Tuấn Triều S không yêu cầu bị can T phải bồi thường gì khác; bà Nguyễn Thị Kim P (mẹ đẻ của T) đã trả số tiền 5.000.000 đồng cho anh Nguyễn Mạnh T, bà P và anh T  không yêu cầu gì khác.

Tại bản Cáo trạng số: 33/CT - VKSQY ngày 12/4/2022, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q đã truy tố bị cáo Hoàng Minh T về tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q vẫn giữ quan điểm truy tố bị cáo theo nội dung Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điêu 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Hoàng Minh T: từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/02/2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng: xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

* Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an thị xã Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó: các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

Về hành vi phạm tội:

[1] Trong quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo Hoàng Minh T khai nhận hành vi trộm cắp phù hợp với nội dung bản Cáo trạng.

Tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Minh T khai: khoảng 00 giờ 30 phút ngày 10/02/2022, bị cáo điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter BKS 14 X1 - xxx.09 đến đoạn đường thuộc thôn 1, xã Hiệp Hòa, thị xã Q thì gặp bạn tên là T đứng ở đường. Bị cáo bảo T đi mượn xe để đi cầm cố lấy tiền thì T đồng ý. Bị cáo chở T lên đoạn gầm cầu Sông Chanh và nói với T đứng đợi, sau đó bị cáo đi bộ đến nhà anh Phạm Tuấn Triều S thấy đèn trong nhà anh S vẫn sáng. Bị cáo nhắn tin cho chị Phượng là bạn gái của anh S để hỏi thì biết anh S chưa ngủ nên bị cáo đã cùng T đi chơi đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 10/02/2022 thì quay lại khu vực gầm cầu Sông Chanh. Bị cáo nói với T ở lại trông xe để bị cáo đi mượn xe. Sau đó, bị cáo một mình đi bộ về phía nhà anh S thì thấy điện bên trong nhà đã tắt. Bị cáo mở cổng đi vào nhà anh S thấy tại sân có một xe mô tô nhiệu Honda Vision màu đen - đỏ, BKS 36B6 - xxx.07, chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa xe nên bị cáo dắt chiếc xe ra khỏi cổng rồi nổ máy bỏ đi. Bị cáo đi xe vừa trộm cắp được của anh S và rủ T đi xe của bị cáo lên Bệnh viện Thụy Điển, Uông Bí. Bị cáo đã gửi xe của bị cáo lại Bệnh viện rồi đi xe đã trộm cắp lên thị xã Đông Triều cắm xe. Trên đường đi, bị cáo đã gọi điện nhờ D cắm xe hộ và D nhờ anh T cầm cố xe được số tiền 5 triệu đồng. Sau đó, bị cáo gọi xe ta-xi đi về Bệnh viện Thụy Điển lấy xe đi về nhà. Bị cáo cho T 500.000 đ. Mẹ bị cáo là bà P đã trả cho anh T  số tiền 5 triệu mà bị cáo cắm xe. Bị cáo không nói cho T biết việc trộm cắp xe ở nhà anh S.

Người bị hại anh Phạm Tuấn Triều S khai: khoảng 0 giờ 20 phút ngày 10/02/2022, anh S và chị Phượng đi chơi về có để xe ở sân trước cửa nhà và cắm chìa khóa ở xe. Khoảng 1 giờ 30 phút cùng ngày, anh S đi ra ngoài thì thấy T dắt xe đi ra khỏi sân, anh S có đuổi nhưng không kịp. Sau đó, anh S có đến gặp T đòi xe nhưng không được nên đã viết đơn trình báo Công an.

Người làm chứng anh Nguyễn Xuân D, anh Nguyễn Mạnh T có lời khai phù hợp lời khai bị cáo T. Thể hiện: khoảng 3 giờ ngày 10/02/2022, thì T có đến nhà D. T nói nhờ D cầm cố một xe Honda Vision, BKS: 36 B6- xxx07 lấy tiền giải quyết công việc. Vì không có tiền nên anh D nhờ anh T  cầm xe cho T với giá 5 triệu đồng. Anh T  và anh D không biết xe T mang đến cầm là do trộm cắp mà có. Chiếc xe anh D đã giao nộp Cơ quan điều tra. Anh T  đã nhận số tiền 5 triệu của bà P mẹ T trả và không có yêu cầu gì khác.

Bà Nguyễn Thị Kim P khai nhận: ngày 28/02/2022, bà P đã trả cho anh Nguyễn Mạnh T số tiền 5 triệu đồng. Đây là số tiền con bà P cầm cố xe của anh T . Bà P tự nguyện trả cho bị cáo T, không yêu cầu T phải trả lại số tiền này cho bà.

Như vậy, lời khai của người bị hại, người làm chứng trong quá trình điều tra phù hợp với lời khai bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với các chứng cứ khác trong vụ án. Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận: khoảng 01 giờ 30 phút ngày 10/02/2022, tại khu 3, phường Q, thị xã Q, tỉnh Q. Hoàng Minh T có hành vi trộm cắp 01(một) chiếc xe mô tô nhiệu Honda Vision màu đen, đỏ; BKS 36B6 - xxx.07 đã qua sử dụng của anh Phạm Tuấn Triều S trị giá 19.000.000 đồng (mười chín triệu đồng).

Hành vi nêu trên của bị cáo Hoàng Minh T phạm vào tội “ trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm;

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của công dân, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội được pháp luật bảo vệ. Lợi dụng đêm tối, cổng nhà anh S không khóa nên bị cáo T đã lén lút vào trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision màu đen, đỏ BKS: 36 B6- xxx07 trị giá 19 triệu đồng. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “trộm cắp tài sản’ quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cho nên việc đưa bị cáo ra xử lý trước pháp luật là cần thiết, đáp ứng yêu cầu phòng chống các tội phạm xâm phạm sở hữu về tài sản trong tình hình hiện nay.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: ngày 04/11/2020 bị cáo Hoàng Minh T bị Tòa án nhân dân thị xã Q, tỉnh Q xử phạt 12 tháng tù về tội “tàng trữ trái phép chất ma Ty” chưa được xóa án nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi vi phạm. Người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt tù cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự để bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật, sau trở thành công dân tốt cho xã hội.

[5] Về vật chứng: chiếc xe mô tô Honda Vision, BKS 36 B6- xxx07, Cơ quan điều tra đã trả lại cho người bị hại anh Phạm Tuấn Triều S, anh S không có yêu cầu gì khác.

[6] Vấn đề khác: Đối với người tên T cùng đi với bị cáo T. Quá trình điều tra không xác định được lý lịch cụ thể, bị cáo T khai không rủ, bàn bạc với T việc đi trộm cắp nên Hội đồng xét xử không xét.

Đối với số tiền 5 triệu đồng, bà Nguyễn Thị Kim P đã trả cho anh Nguyễn Mạnh T. Bà P không yêu cầu bị cáo T phải trả lại cho bà nên Hội đồng xét xử không xét.

[7] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): xét bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 260 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Về tội danh:

Bị cáo Hoàng Minh T phạm tội “ trộm cắp tài sản”

2. Về điều luật áp dụng:

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

3. Về mức hình phạt tù:

Xử phạt Hoàng Minh T: 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 10/02/2022.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm, quyền kháng cáo: căn cứ khoản 1-2 Điều 135, khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Luật phí và lệ phí.

Bị cáo Hoàng Minh T phải nộp 200.000 đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

50
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 35/2022/HS-ST

Số hiệu:35/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Quảng Trị - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về