Bản án về tội trộm cắp tài sản số 31/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC HÀ – TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 31/HS-ST NGÀY 02/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 12 năm 2021 tại hội trường xét xử, Tòa án nhân dân huyện Lộc Hà đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 31/2021/TLST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2021/HSST-QĐ ngày 18/11/2021 đối với bị cáo:

ĐẬU VĂN H; Sinh ngày 11/10/1976, tại xã X, huyện N, tỉnh H; HKTT: tổ dân phố P, phường T, thị xã H, tỉnh H; Quốc tịch: Việt nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 02/12;Con ông: Đậu Văn H. (Đã chết); Con bà: Trần Thị T, sinh năm 1937. Hiện già yếu, sinh sống tại xã X, huyện N, tỉnh H; Vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1985, nghề nghiệp: Lao động tự do tại phường T, thị xã H, tỉnh H; Bị cáo có 02 người con, đứa lớn sinh năm 2004 đứa nhỏ sinh năm 2013; Anh, chị em ruột có 06 người, bị can là con thứ sáu. Nhân thân: Ngày 09/12/2014 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh H tuyên phạt 7 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 44/2014/HSST chấp hành án tại trại giam Xuân Hà, tỉnh Hà Tĩnh, ra trại ngày 17/12/2019; Ngày 23/9/2020 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh N tuyên phạt 6 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản” theo bản án số 50/2020/HSST chấp hành án tại trại giam Xuân Hà, tỉnh Hà Tĩnh, ra trại ngày 08/5/2021; Tiền án, tiền sự: Không; Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo bị tạm giam từ ngày 25/9/2021 đến nay.

Có mặt tại phiên tòa Người bị hại: Chị Nguyễn Thị H; Sinh năm 1994; Nơi cư trú: Thôn 5, xã B, huyện L, tỉnh H. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Có mặt tại phiên tòa Người làm chứng: Anh Lê Văn H; Sinh năm 1974; Nơi cư trú: Thôn 3, xã B, huyện L, tỉnh H. Có mặt tại phiên tòa Chị Lê Thị T; Sinh năm 1975; Nơi cư trú: Thôn 5, xã B, huyện L, tỉnh H.

Có mặt tại phiên tòa Anh Cao Đức T; Sinh năm 1971; Nơi cư trú: TDP P, phường T, thị xã H, tỉnh H. Có mặt tại phiên tòa Chị Nguyễn Thị T; Sinh năm 1985; Nơi cư trú: TDP P, phường T, thị xã H, tỉnh H. Vắng mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đậu Văn H, là người có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương ngày 08/5/2021. Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 23/9/2021 Đậu Văn H một mình điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đỏ đen, biển kiểm soát: 38F1 - 041.95 (xe của vợ H là chị Nguyễn Thị T) đi từ nhà theo đường quốc lộ 1A đến ngã 3 thị trấn N, huyện C rẽ theo đường đi xuống xã B, huyện L tìm nhà dân sơ hở để lấy trộm tài sản. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày khi đi qua nhà chị Nguyễn Thị H thấy cổng nhà không khóa nên H đi xe mô tô vào dựng trong sân nhà, thấy không có người, cửa nhà không khóa nên H mở của đi vào phòng khách đến phòng ngủ của chị H thì thấy mẹ con chị H đang ngủ trên giường. Quan sát trong phòng thấy có một con lợn tiết kiệm bằng gốm của chị H để trong tủ trang điểm đầu giường ngủ, cánh tủ mở hé không khoá, nghĩ trong con lợn bằng gốm có tiền nên H đi lại lấy con lợn ra, do cầm không chắc nên H làm rơi con lợn trên nền nhà khiến con lợn bị vỡ thì chị H tỉnh giấc phát hiện. Thấy vậy, H liền lấy hết số tiền 1.400.000 đồng trong con lợn và bỏ chạy ra ngoài để tẩu thoát thì chị H chạy ra đóng cổng và giữ xe mô tô lại, rút chìa khóa xe không cho H đi, đồng thời hô hoán người dân xung quanh thì H lấy hết số tiền 1.400.000 đồng vừa lấy trộm được của chị H vứt xuống sân nhà để bỏ chạy nhưng người dân xung quanh chạy đến khống chế bắt giữ được H và báo cho Công an xã B đến làm việc.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đậu Văn H đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số 29/CT-VKSLH ngày 08 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện VKSND huyện Lộc Hà đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Bộ luật Hình sự xử phạt Đậu Văn H từ 09 tháng đến 12 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 25/9/2021.

Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Người bị hại đã được bồi thường đầy đủ, không yêu cầu gì thêm nên đề nghị Tòa miễn xét Đề nghị HĐXX xem xét áp dụng điểm c khoản 2 điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: đề nghị trả lại cho bị cáo 01 sợi dây chuyền chất liệu kim loại màu trắng; 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia 210 màu đỏ bên trong có số thuê bao 0393483057 đã qua sử dụng; Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 6.910.000 đồng Tiêu hủy: nhiều mảnh vỡ bằng gốm của con lợn tiết kiệm màu trắng, có hoa văn màu hồng.

Bị cáo: Không tranh luận gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lộc Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

2. Lời khai của bị cáo tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác thu thập có được trong hồ sơ vụ án cho thấy: Vào khoảng 15 giờ, ngày 23/9/2021, Đậu Văn H đã có hành vi lén lút đột nhập vào nhà chị Nguyễn Thị H lấy trộm số tiền 1.400.000 đồng của chị H ở trong con lợn tiết kiệm.

Lần thứ nhất Ngày 09/12/2014 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh H tuyên phạt 7 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 44/2014/HSST chấp hành án tại trại giam Xuân Hà, tỉnh Hà Tĩnh, ra trại ngày 17/12/2019; Lần thứ 2: Bị cáo đã trộm số tiền là 700.000đ đã thu hút lần xét xử thứ nhất vào tình tiết định tội, lần này bị cáo đã trộm số tiền 1.400.000đ và bị cáo đã bị xét xử hai lần trước mặc dù không xem xét là tình tiết tái phạm nhưng cũng xem vào nhân thân của bị cáo.

Do đó, HĐXX có đầy đủ các căn cứ để xét xử bị cáo Đậu Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173-BLHS như Cáo trạng của VKSND huyện Lộc Hà truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng: Không Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố, xé xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo; bị cáo có bố là ông Đậu Văn H được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất; người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt hoàn cảnh gia đình khó khăn; bị cáo đang điều trị bệnh. Do đó, Tòa cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét cho bị cáo được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật.

Tuy nhiên dù được xem xét chiếu cố, Tòa xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện để giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội.

3. Về trách nhiệm dân sự: Trong vụ án này, người bị hại là chị Nguyễn Thị H đã nhận lại đầy đủ các tài sản đã bị mất và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Tòa miễn xét.

4. Về vật chứng: Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an huyện Lộc Hà đã thu giữ và trả lại: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đỏ - đen, biển kiểm soát 38F1-041.95; 01 đăng ký xe số 004866 mang tên Nguyễn Thị T trú tại K9, phường T, thị xã H cho chị Nguyễn Thị T; Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1.400.000 đồng cho chị Nguyễn Thị H; 01 giấy CMND số 183366288 mang tên Đậu Văn H cho Đậu Văn H. Cơ quan điều tra Công an huyện Lộc Hà đã trả lại cho chủ sở hữu nên Tòa miễn xét - 01 sợi dây chuyền chất liệu kim loại màu trắng; 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia 210 màu đỏ bên trong có số thuê bao 0393483057 đã qua sử dụng; Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 6.910.000 đồng (do Đậu Văn H giao nộp); Tòa xét thấy đây là tài sản của bị cáo Đậu Văn Hòa nên trả lại cho bị cáo.

Một số mảnh vỡ bằng gốm của con lợn tiết kiệm màu trắng, có hoa văn màu hồng nên tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đậu Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 -Bộ luật hình sự xử phạt Đậu Văn H 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 25/9/2021.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 2 điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo 01 sợi dây chuyền chất liệu kim loại màu trắng; 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia 210 màu đỏ bên trong có số thuê bao 0393483057 đã qua sử dụng;Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 6.910.000 đồng và tiêu hủy nhiều mảnh vỡ bằng gốm của con lợn tiết kiệm màu trắng, có hoa văn màu hồng (có đặc điểm như biên giao nhận vật chứng).

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136-BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST.

Báo cho cho bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án này lên Toà án cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

324
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 31/HS-ST

Số hiệu:31/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Hà - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về