Bản án về tội trộm cắp tài sản số 27/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 27/2021/HS-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 11/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2021/HSST-QĐ ngày 20 tháng 4 năm 2021, đối với:

- Bị cáo: Kim Xuân T, sinh năm 1982 tại huyện Đ, Thành phố Hà Nội; nơi cư trú: Cụm 5, xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 2/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Kim Xuân Đ (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ; có vợ và có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2016; tiền sự: Không;

Tiền án: Ngày 10/8/2020, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; nhân thân: Ngày 19/10/2001, bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây (nay là Thành phố Hà Nội) xử phạt 10 năm tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; ngày 25/12/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Đ, Thành phố Hà Nội xử phạt 03 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt ngày 20/4/2015; bị bắt tạm giữ từ ngày 07/10/2020 đến ngày 16/10/2020 bị cáo đi chấp hành hình phạt 06 tháng tù theo Bản án số 540/2020/HS-PT ngày 10/8/2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, đến ngày 16/4/2021 chấp hành xong hình phạt; danh bản, chỉ bản số 049 lập ngày 14/01/2021 của Công an huyện Đ, Thành phố Hà Nội; bị cáo có mặt.

- Bị hại: Ông Nguyễn Hữu T, sinh năm 1974 và bà Đinh Thị M, sinh năm 1976; cùng địa chỉ: Phố Đ, tổ dân phố T, phường Tây Tựu, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Kim Thị T (tên gọi khác: Nguyễn Kim T), sinh năm 1974; địa chỉ: Cụm 5, xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

+ Ông Hoàng Đức C, sinh năm 1974; địa chỉ: Cụm 3, xã L, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

- Người làm chứng: Ông Bùi Văn K, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn B, xã Đ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 07/10/2020, Kim Xuân T ở Cụm 5, xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội điều khiển xe máy biển kiểm soát 33K1-X đi từ nhà mình đến cánh đồng thôn B, xã Đ, huyện Đ để trộm cắp tài sản. Khi đi đến vườn hoa nhà anh Nguyễn Hữu T, sinh năm 1974 (hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố T, phường Tây Tựu, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội) thấy không có ai trông coi, T lẻn vào tháo trộm 02 chiếc máy bơm nước trong vườn hoa. Khi T mang máy bơm ra xe máy thì bị chị Đinh Thị M, sinh năm 1976 (là vợ anh T) phát hiện hô hoán. T để lại xe máy của mình và bỏ chạy được một đoạn thì bị quần chúng nhân dân và lực lượng Công an bắt, thu giữ 02 chiếc máy bơm, 01 xe máy biển kiểm soát 33K1-X, trên xe máy có 01 chiếc ba lô màu đỏ đen, bên trong ba lô có 01 chiếc cưa sắt cầm tay màu đỏ, 01 tô vít chuôi nhựa màu đỏ đen, 01 tô vít chuôi nhựa màu vàng đen, 01 mỏ lết màu bạc, 01 kìm cầm tay chuôi nhựa màu đỏ đen, 01 kìm cộng lực dài khoảng 50cm có tay cầm màu xanh và 01 đoạn dây chun chằng màu đỏ vàng dài khoảng 1,8m.

Cùng ngày, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét nhà ở của T, kết quả thu giữ: 01 áo cộc tay màu đen, 01 đoạn dây cao su màu xanh đen (dạng dây rửa xe máy) và 01 chiếc loa nhãn hiệu Bose.

Tại Kết luận định giá tài sản số 86/KL-HĐ ngày 09/12/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ, kết luận: 01 bộ giàn rửa xe, đã qua sử dụng, gồm: 01 mô tơ (Single-Phase-Motor) màu xanh, nhãn hiệu BL, số loại YL90L-4, công suất 1,5KW, sản xuất tại Công ty TNHH BL Lạng Sơn và 01 máy bơm áp (PT- 26A Agricultural Pow er Sprayers) màu đỏ nhãn hiệu Taiwan Style, công suất 1,5-2KW, được lắp trên một giá thép) đã qua sử dụng mua tháng 10/2019, có trị giá 1.400.000 đồng; 01 máy bơm nước đĩa, màu xanh nhãn hiệu TP, TYPE: CMA 100M, số P/N: 10537681866, công suất 0,74KW, lắp ráp tại Công ty TNHH TMĐT và PT, đã qua sử dụng, mua tháng 10/2019, có trị giá 800.000 đồng. Tổng số là 2.200.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 13/CT-VKS-ĐP ngày 18 tháng 3 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Thành phố Hà Nội truy tố Kim Xuân T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Kim Xuân T khai nhận do muốn có tiền để chi tiêu cá nhân nên bị cáo đã thực hiện vụ trộm cắp tài sản như nội dung đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Thành phố Hà Nội tại phiên tòa trình bày lời luận tội, giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố Kim Xuân T về tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo T từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự, tài sản của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được trả lại, những người trên không có yêu cầu gì nên không phải giải quyết. Xử lý vật chứng, tịch thu tiêu hủy 01 chiếc ba lô màu đỏ đen, 01 chiếc cưa sắt cầm tay màu đỏ, 01 tô vít chuôi nhựa màu đỏ đen, 01 tô vít chuôi nhựa màu vàng đen, 01 mỏ lết màu bạc, 01 kìm cầm tay chuôi nhựa màu đỏ đen, 01 kìm cộng lực dài khoảng 50cm có tay cầm màu xanh và 01 đoạn dây chun chằng màu đỏ vàng dài khoảng 1,8m và 01 áo cộc tay màu đen, 01 đoạn dây cao su màu xanh đen (dạng dây rửa xe máy). Trả lại cho bị cáo 01 chiếc loa nhãn hiệu Bose.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến, không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Kim Xuân T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng truy tố. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, được chứng M bằng lời khai của bị hại và tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Khoảng 12 giờ ngày 07/10/2020, Kim Xuân T ở Cụm 5, xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội điều khiển xe máy biển kiểm soát 33K1-X đi từ nhà mình đến cánh đồng thôn B, xã Đ, huyện Đ. Tại đây, T lẻn vào lấy trộm 02 chiếc máy bơm nước, có tổng trị giá là 2.200.000 đồng, trong vườn hoa nhà anh Nguyễn Hữu T và chị Đinh Thị M (hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố T, phường Tây Tựu, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội) thuê để trồng hoa. Khi T mang máy bơm ra xe máy thì bị chị M (là vợ anh T) phát hiện hô hoán, T bỏ xe máy chạy được một đoạn thì bị bắt giữ. Tang vật thu giữ 02 chiếc máy bơm, 01 xe máy biển kiểm soát 33K1-X, 01 chiếc ba lô màu đỏ đen, bên trong ba lô có 01 chiếc cưa sắt cầm tay màu đỏ, 01 tô vít chuôi nhựa màu đỏ đen, 01 tô vít chuôi nhựa màu vàng đen, 01 mỏ lết màu bạc, 01 kìm cầm tay chuôi nhựa màu đỏ đen, 01 kìm cộng lực dài khoảng 50cm có tay cầm màu xanh và 01 đoạn dây chun chằng màu đỏ vàng dài khoảng 1,8m.

Cùng ngày, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét nhà ở của T và thu giữ: 01 áo cộc tay màu đen, 01 đoạn dây cao su màu xanh đen (dạng dây rửa xe máy) và 01 chiếc loa nhãn hiệu Bose.

[3] Bị cáo Kim Xuân T dùng thủ đoạn lén lút để chiếm đoạt tài sản là những chiếc máy bơm của bị hại, mục đích đem bán lấy tiền chi tiêu cá nhân, đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo qui định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo theo tội danh và viện dẫn điều luật nêu trong cáo trạng là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, mà còn gây ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội tại địa phương. Bị cáo do lười lao động nhưng lại muốn có tiền để hưởng thụ nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị Tòa án xét xử và áp dụng hình phạt tù nhưng không có ý thức sửa chữa sai phạm nay lại tiếp tục phạm tội. Mặt khác, bị cáo đã có tiền án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án lại thực hiện hành vi trộm cắp lần này nên thuộc T hợp “tái phạm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự qui định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Do đó, cần có hình phạt nghiêm, bắt cách ly khỏi đời sống xã hội để cải tạo và giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Hội đồng xét xử cũng xem xét quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

Xét bị cáo Kim Xuân T không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không có điều kiện về kinh tế để đảm bảo cho việc thi hành án. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo qui định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ 02 chiếc máy bơm, sau khi làm rõ đã trả lại cho bị hại là ông Nguyễn Hữu T, bà Đinh Thị M đã nhận lại và đều không có yêu cầu gì về việc bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không phải xem xét.

Đối với 01 xe máy biển kiểm soát 33K1-X, quá trình điều tra xác định chiếc xe máy trên là tài sản hợp pháp của chị Kim Thị T. Bị cáo dùng chiếc xe vào việc phạm tội chị T không biết nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị T là đúng qui định pháp luật.

Cơ quan điều tra còn thu giữ 01 chiếc ba lô màu đỏ đen, bên trong ba lô có 01 chiếc cưa sắt cầm tay màu đỏ, 01 tô vít chuôi nhựa màu đỏ đen, 01 tô vít chuôi nhựa màu vàng đen, 01 mỏ lết màu bạc, 01 kìm cầm tay chuôi nhựa màu đỏ đen, 01 kìm cộng lực dài khoảng 50cm có tay cầm màu xanh và 01 đoạn dây chun chằng màu đỏ vàng dài khoảng 1,8m; 01 áo cộc tay màu đen, 01 đoạn dây cao su màu xanh đen (dạng dây rửa xe máy), đây là các đồ vật liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo và do không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc loa nhãn hiệu Bose thu giữ tại nhà ở của bị cáo, dop không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[5] Án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo Kim Xuân T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Kim Xuân T 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, bị cáo được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 07/10/2020 đến ngày 16/10/2020.

- Căn cứ: Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được trả lại tài sản và không yêu cầu gì về việc bồi thường dân sự đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không phải xem xét.

+ Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 chiếc ba lô màu đỏ đen, 01 chiếc cưa sắt cầm tay màu đỏ, 01 tô vít chuôi nhựa màu đỏ đen, 01 tô vít chuôi nhựa màu vàng đen, 01 mỏ lết màu bạc, 01 kìm cầm tay chuôi nhựa màu đỏ đen, 01 kìm cộng lực dài khoảng 50cm có tay cầm màu xanh và 01 đoạn dây chun chằng màu đỏ vàng dài khoảng 1,8m; 01 áo cộc tay màu đen, 01 đoạn dây cao su màu xanh đen (dạng dây rửa xe máy).

Trả lại bị cáo Kim Xuân T 01 chiếc loa nhãn hiệu Bose (Vật chứng do Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ quản lý, theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Đ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, thành phố Hà Nội ngày 13/4/2021, Thành phố Hà Nội).

- Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Kim Xuân T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo Kim Xuân T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo qui định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo qui định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 27/2021/HS-ST

Số hiệu:27/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đan Phượng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về