TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 257/2020/HS-PT NGÀY 29/04/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 4 năm 2020 tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 07/2020/TLPT-HS ngày 03 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Công T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 253/2019/HS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Bị cáo có kháng cáo:
NGUYỄN CÔNG T, sinh năm: 1996; giới tính: Nam; ĐKNKTT và nơi ở: Huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 7/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: Nguyễn Công A và bà Nguyễn Thị B; vợ: Diệp Thị M; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt ngày 05/5/2019; có mặt.
Người bào chữa:
Ông Nguyễn Văn C, luật sư văn phòng luật sư Hoàng Gia T, đoàn luật sư thành phố Hà Nội; bào chữa cho bị cáo; có mặt.
- Trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Tiến Q không kháng cáo, không bị kháng nghị tòa không triệu tập.
- Bị hại không kháng cáo, tòa không triệu tập
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 04/5/2019, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội – Công an quận Hoàn Kiếm tuần tra, kiểm soát phòng chống tội phạm trộm cắp xe máy trên đại bàn quận Hoàn Kiếm thì phát hiện Nguyễn Công T điều khiển xe máy Exciter màu xanh dương (dùng khẩu trang che biển kiểm soát) chở Nguyễn Tiến Q có biểu hiện nghi vấn. Đến khoảng 12 giờ 15 phút cùng ngày, tổ công tác tiến hành kiểm tra hành chính T và Q tại lòng đường trước cửa nhà Ngô Quyền thì cả hai nhảy khỏi xe bỏ chạy và bị bắt giữ. Qua kiểm tra phát hiện thu giữ trên người Nguyễn Công T có 01 bộ vam phá khóa xe máy gồm 01 tay còng, 01 đầu khóa mở chùm và 04 đầu khóa mở các loại xe máy; T và Q khai là vam phá khóa xe. Tổ công tác đã đưa Q và T cùng tang vật về trụ sở công an giải quyết.
Quá trình điều tra xác định: Nguyễn Công T và Nguyễn Tiến Q không có việc làm ổn định nên thường xuyên cùng nhau điều khiển xe máy Yamaha Exciter 150 màu xanh dương, đi quanh các tuyến phố trên địa bàn thành phố Hà Nội mục đích sử dụng vam phá khóa để trộm cắp xe máy. Từ tháng 02/2019 đến tháng 4/2019, T và Q đã cùng nhau thực hiện 05 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn các quận Hoàn Kiếm, Long Biên, Đống Đa, Cầu Giấy, cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Khoảng trưa ngày 08/2/2019, tại khu vực vỉa hè trước cửa hàng KFC quận Long Biên, Hà Nội, Q cảnh giới, T dùng vam phá khóa trộm cắp 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH Việt 125cc màu trắng đen, của chị Lê Thị Hồng D. Sau đó T nhờ Nguyễn Công S, ĐKHKTT: xã Kim Lũ, huyện Sóc Sơn, Hà Nội) bán được 14.000.000 đồng, chia nhau mỗi người hưởng lời 7.000.000 đồng ăn tiêu hết.
Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 225 ngày 27/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hoàn Kiếm kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH Việt màu trắng đen, có giá trị 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng).
Sau khi phát hiện mất tài sản, chị D đã đến trình báo tại Công an phường Ngọc Lâm, quận Long Biên, Hà Nội. Công ty TNHH dịch vụ bảo vệ Trí Đức đã bồi thường cho chị D số tiền 45.000.000 đồng. Công ty TNHH dịch vụ bảo vệ Trí Đức yêu cầu T và Q phải bồi thường cho công ty số tiền 45.000.000 đồng.
Vụ thứ hai Khoảng 15 giờ ngày 25/02/2019, Q dùng vam phá khóa, T cảnh giới lấy trộm 01 xe máy Honda SH màu đỏ, của chị Nguyễn Thị E tại khu vực phường Hàng Bạc, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Sau đó, T bán chiếc xe máy trên cho Nguyễn Quý U, ĐKHKTT: huyện Sóc Sơn, Hà Nội được 34.000.000 đồng, chia nhau mỗi người hưởng lời 17.000.000 đồng ăn tiêu hết.
Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 227 ngày 28/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hoàn Kiếm kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH 150i màu đỏ, số khung: 065410, số máy: 1066817 có giá trị 71.000.000 đồng (bảy mươi mốt triệu đồng).
Sau khi xảy ra sự việc, chị E đã đến trụ sở Công an phường Hàng Bạc trình báo. Về dân sự, chị E yêu cầu T và Q phải bồi thường số tiền 71.000.000 đồng.
Vụ thứ ba: Khoảng 9 giờ ngày 27/4/2019, Q dùng vam phá khóa, T cảnh giới trộm cắp 01 xe máy Yamaha Exciter màu xanh xám, của anh Lê Anh L tại khu vực vỉa hè phường Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội. Sau đó, Q nhờ Nguyễn Tiến H, ĐKHKTT: huyện Sóc Sơn, Hà Nội bán xe được 9.000.000 đồng, chia nhau mỗi người hưởng lời 4.500.000 đồng ăn tiêu hết.
Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 224 ngày 26/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hoàn Kiếm kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh bạc, số khung: 0610FY112983, số máy: G3D4E125581 có giá trị 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).
Sau khi xảy ra sự việc, anh L đã đến trụ sở Công an phường Láng Hạ trình báo. Anh L yêu cầu T và Q phải bồi thường số tiền 20.000.000 đồng.
Vụ thứ tư: Khoảng 13h ngày 27/4/2019, Q cảnh giới, T phá khóa trộm cắp 01 xe SH màu đen, của anh Dương Văn I dựng trên vỉa hè trước cửa nhà phường Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Sau đó, Q nhờ Nguyễn Tiến H, ĐKHKTT: huyện Sóc Sơn, Hà Nội bán xe được 14.000.000 đồng. Q và T chia lời mỗi người 7.000.000 đồng và ăn tiêu hết số tiền trên.
Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 89 ngày 08/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hoàn Kiếm kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH mode màu đen, số khung: 051335, số máy: 0051433 có giá trị 51.500.000 đồng (năm mươi mốt triệu năm trăm nghìn đồng).
Sau khi xảy ra sự việc, anh I đã đến trụ sở Công an phường Lý Thái Tổ trình báo. Anh I yêu cầu T và Q phải bồi thường số tiền 51.500.000 đồng.
Vụ thứ năm: Khoảng 10 giờ ngày 28/4/2019, T dùng vam phá khóa, Q cảnh giới lấy trộm 01 xe máy Honda SH mode màu trắng nâu, của anh Đỗ Tuấn O tại vỉa hè phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Sau đó, Q nhờ Nguyễn Tiến H bán xe được 13.000.000 đồng, chia nhau mỗi người hưởng lời 6.500.000 đồng ăn tiêu hết.
Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 226 ngày 28/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hoàn Kiếm kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH mode màu trắng nâu, số khung: 5127FY048301, số máy: JF51E0290379 có giá trị 32.000.000 đồng (ba mươi hai triệu đồng).
Sau khi xảy ra sự việc, anh O đã đến trụ sở Công an phường Nghĩa Đô trình báo. Anh O yêu cầu T Và Q phải bồi thường số tiền 32.000.000 đồng.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Công T và Nguyễn Tiến Q đều khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản như đã nêu trên.
Đối với các đối tượng Nguyễn Tiến H, Nguyễn Quý U và Nguyễn Công S;
Q và T khai nhờ bán xe máy trộm cắp, Cơ quan điều tra đã nhiều lần triệu tập đến làm việc tuy nhiên các đối tượng không có mặt tại địa phương, gia đình không biết đi đâu làm gì nên đã ra Quyết định tách rút tài liệu liên quan đến các đối tượng H, U và S để tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý.
Với nội dung trên, tại bản án hình sự sơ thẩm số 253/2019/HSST ngày 26/11/2019 Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội đã quyết định: Tuyên bố: Nguyễn Công T, Nguyễn Tiến Q phạm tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng: Điểm a Khoản 3 điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điểm b,g,o khoản 1 điều 52; điều 38; điều 58 Bộ luật hình sự:
Xử phạt: Nguyễn Công T 08(tám) năm 06(sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/5/2019.
Ngoài ra bản án còn quyết định hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Tiến Q, quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 09/12/2019 bị cáo Nguyễn Công T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyễn Công T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Gia đình bị cáo xuất trình tài liệu xác nhận đã bồi thường một phần cho hai bị hại theo quyết định của bản án sơ thẩm. Bị hại Dương Văn I có đơn đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện viện kiểm sát thành phố Hà Nội có quan điểm:
Căn cứ lời khai của các bị cáo và các tài liệu có trong hồ sơ thì tòa án sơ thẩm đã xét xử Nguyễn Công T và Nguyễn Tiến Q với tội danh trộm cắp tài sản theo điểm a khoản 3 điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Hành vi của các bị cáo là nghiêm trọng, tòa án sơ thẩm áp dụng hình phạt tù là đúng, tuy nhiên tại phiên tòa phúc thẩm gia đình bị cáo T đã nộp một phần khoản tiền khắc phục hậu quả thay cho bị cáo và xuất trình tài liệu bị cáo đã có thời gian tham gia quân đội, bị hại Dương Văn I đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.Vì vậy đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt cho bị cáo 03 tháng. Cụ thể đề nghị hình phạt của Nguyễn Công T là 08 năm 3 tháng tù.
Luật sư bào chữa cho bị cáo T có quan điểm:
Nhất trí với các nội dung giảm nhẹ mà Viện kiểm sát đã nêu, ngoài ra đề nghị hội đồng xét xử xem xét thêm trong quá trình luật sư tham gia bảo vệ cho bị cáo thì bị cáo có nhờ luật sư về tác động gia đình giúp bị cáo bồi thường cho các bị hại, thể hiện bị cáo có ý thức khắc phục hậu quả. Vì vậy đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về hình thức: Kháng cáo của bị cáo T trong thời hạn quy định của pháp luật nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Về nội dung:
Căn cứ lời khai của các bị cáo T và Q phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu khác có trong hồ sơ, có đủ cơ sở kết luận tòa án nhân dân tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm đã xét xử các bị cáo Nguyễn Công T và Nguyễn Tiến Q tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 3 điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Xét yêu cầu kháng cáo của Nguyễn Công T hội đồng xét xử thấy rằng:
Hành vi của các bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác và gây mất trật tự trị an xã hội. Tòa án sơ thẩm đã căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để quyết định hình phạt đối với các bị cáo là có căn cứ. Tuy nhiên tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo T thành khẩn, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo cũng như luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày và xuất trình các tài liệu thể hiện việc bị cáo đã tác động gia đình bồi thường một phần cho các bị hại theo quyết định của bản án sơ thẩm, như vậy bị cáo cũng đã có ý thức chấp hành pháp luật và được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Bị hại là anh Dương Văn I có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và bản thân bị cáo cũng có thời gian tình nguyện tham gia quân đội. Với những tình tiết mới nêu trên tại phiên tòa phúc thẩm, hội đồng xét xử thấy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo tốt, thể hiện sự khoản hồng của pháp luật đối với những người biết ăn năn, hối cải và chấp hành pháp luật.
Bị cáo được chấp nhận kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 điều 355, điểm c khoản 1 điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH/14 ngày 30/12/2016 về án lệ phí tòa án.
- Chấp kháng cáo của bị cáo Nguyễn Công T. Sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 253/2019/HSST ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
+ Áp dụng: Điểm a khoản 3 điều 173; điểm b,s khoản 1, khoản 2 điều 51; điểm b,g,o khoản 1 điều 52; điều 38; điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt: Nguyễn Công T 08(tám) năm tù về tội trộm cắp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày 05/5/2019.
- Bị cáo Nguyễn Công T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
- Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 257/2020/HS-PT
Số hiệu: | 257/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/04/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về