Bản án về tội trộm cắp tài sản số 25/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 25/2023/HS-ST NGÀY 21/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 29/2023/TLST-HS ngày 22/5/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2023/QĐXXST-HS ngày 30/5/2023, đối với bị cáo:

Trần Minh T; Giới tính: Nam; sinh ngày 1995, tại tỉnh An Giang; Đăng ký thường trú: Ấp Bình Thành, xã Bình Mỹ, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Trần Văn H và bà Nguyễn Thị L; Vợ, con: Không:

Tiền án: Bản án số 67/HSST ngày 12/03/2015 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chưa thi hành khoản nộp tiền thu lợi bất chính 350.000 đồng, chưa được xóa án tích.

Tiền sự:

- Quyết định số 266/QĐ-TA ngày 26/12/2019 của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 15 tháng.

- Quyết định số 72/2021/QĐ-TA ngày 28/6/2021 của Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 18 tháng.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 18/11/2022 đến nay (có mặt).

Bị hại:

1/ Ông Nguyễn Quang T, sinh năm 1979 Địa chỉ: Số Z, ấp 2, xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

2/ Ông Trương Thanh P, sinh năm 1987 Địa chỉ: Số Z1 Nguyễn Chế Nghĩa, phường 12, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.

Chỗ ở hiện tại: Số Z2 ấp 2, xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng măt).

3/ Ông Hứa Thanh H, sinh năm 1975 Địa chỉ: Số Z3 Đoàn Văn Bơ, phường 9, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh.

Chỗ ở hiện tại: Số Z4 ấp 2, xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

4/ Ông Lê Tấn H, sinh ngày 28/6/1981 Địa chỉ: Số Z5 ấp 2, xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 00 ngày 16/11/2022, Trần Minh T điều khiển xe mô tô kiểu Wave, biển số 76M4-92xx để đưa P (là bạn ngoài xã hội, không rõ nhân thân lai lịch) từ Quận 7 về khu vực chợ Rạch Đĩa thuộc ấp 5, xã Phước Kiển, huyện Nhà Bè (không rõ địa chỉ), khi đưa P đến trước chợ tạm Rạch Đĩa thì P tự vô nhà, còn T đi về. Trên đường về, T chạy lạc xuống khu vực đường Nguyễn Bình thuộc tổ 4, ấp 2, xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè, thấy dọc tuyến đường có nhiều xe ô tô đang đậu trên đường, xung quanh không người trông coi nên T đã nảy sinh ý định bẻ trộm kính xe ô tô.

T đi đến xe ô tô nhãn hiệu Toyota, loại Fortuner, màu bạc, biển số 51F- 419.xx của anh Nguyễn Quang T đậu trước nhà số 845/1 Nguyễn Bình, tổ 4, ấp 2, xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè bẻ trộm hai gương chiếu hậu xe ô tô của anh T rồi chạy tiếp khoảng 50m thì nhặt được một cái bao màu trắng, T bỏ cặp gương vừa lấy trộm được vào bao tải.

T tiếp tục đi, khi đến xe ô tô nhãn hiệu Toyota, loại VIOS, biển số 51H- 062.xx của anh Trương Thanh Ph đậu trước nhà số 483A Nguyễn Bình, tổ 4, ấp 2, xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè bẻ trộm hai gương chiếu hậu xe của ô tô trên bỏ vào bao tải.

T đi tiếp đến xe ô tô nhãn hiệu Suzuki – XL7, biển số 50E-035.xx của anh Hứa Thanh H đậu trước nhà số 4/17 Nguyễn Bình, tổ 4, ấp 2, xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè bẻ trộm hai gương chiếu hậu xe ô tô của anh Hùng bỏ vào bao tải.

T tiếp tục đi đến xe ô tô nhãn hiệu Toyota, loại Fortuner, màu trắng, biển số 51F-364.xx của anh Lê Tấn H đậu trước nhà số 534 Nguyễn Bình, tổ 4, ấp 2, xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè bẻ trộm một gương chiếu hậu (bên phải) của xe ô tô của anh H bỏ vào bao tải. Do xe ô tô của anh H đậu gần Công an xã Nhơn Đức và chiếc gương còn lại nằm phía bên ngoài đường trống, T sợ bị phát hiện nên chỉ bẻ 01 gương chiếu hậu.

Sau khi T lấy trộm được 07 chiếc gương chiếu hậu của 04 xe ô tô trên, T điều khiển xe chạy theo tuyến đường Nguyễn Bình thuộc ấp 2, xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè, khi đến ngã ba đường Nguyễn Bình và đường Lê Thị Tám thuộc ấp 2, xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè T bị tổ tuần tra của Công an xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè đang đi tuần tra ra hiệu dừng xe để kiểm tra. T sợ bị phát hiện hành vi trộm cắp nên vứt bỏ lại xe mô tô cùng 07 chiếc gương chiếu hậu, rồi nhảy xuống sông trốn. Tổ tuần tra truy tìm thì phát hiện T đang núp trong lùm cây dưới sông nên dẫn T về trụ sở Công an làm rõ. Tại cơ quan điều tra, Trần Minh T khai nhận hành vi trộm cắp tài sản là 07 chiếc gương chiếu hậu xe ô tô.

Kết luận định giá tài sản số 72/KL-HĐĐGTTHS ngày 17/11/2022 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Nhà Bè, kết luận:

- Hai gương chiếu hậu của xe ô tô Fortuner biển số 51F-419xx, được định giá là 8.000.000 đồng;

- Hai gương chiếu hậu của xe ô tô Toyota VIOS biển số 51H-062.xx, được định giá là 4.500.000 đồng;

- Một cái gương chiếu hậu bên trái của xe ô tô Fortuner biển số 51F- 364.xx, được định giá là 2.500.000 đồng;

Hội đồng thống nhất định giá tài sản trên là: 15.000.000 đồng;

Kết luận định giá tài sản số 73/KL-HĐĐGTTHS ngày 02/12/2022 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Nhà Bè, kết luận:

Hai gương chiếu hậu của xe ô tô Suzuki biển số 50E-035.xx, được định giá là 7.000.000 đồng;

Hội đồng thống nhất định giá tài sản trên là: 7.000.000 đồng; Tổng giá trị tài sản bị trộm cắp là 22.000.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 15/CT-VKS-NB ngày 20/2/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, truy tố bị cáo Trần Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát thực hành quyền công tố giữ nguyên Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 173;

điểm h khoản 1 Điều 52; điểm h,s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Minh T mức án từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Vật chứng của vụ án: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONLEI, biển số 76M4-92xx, bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội, chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên cần giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng thông báo tìm chủ sở hữu. Hết thời hạn đăng thông báo mà không tìm được chủ sở hữu thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại được tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường nên đề nghị không xét.

Căn cứ vào các tình tiết và chứng cứ nêu trên,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nhà Bè, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố Tụng hình sự. Bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với nội dung Biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định: Vào khoảng 01 giờ 00 phút ngày 16/11/2022, Trần Minh T liên tục thực hiện 04 hành vi trộm cắp tài sản là gương chiếu hậu của xe ô tô: Fortuner biển số 51F-419xx, Toyota Vios biển số 51H-062.xx, Suzuki biển số 50E-035.xx và xe ô tô Fortuner biển số 51F-364.xx của các anh Nguyễn Quang T, anh Trương Thanh Ph, anh Hứa Thanh H và anh Lê Tấn H, đậu trên đường Nguyễn Bình thuộc tổ 4, ấp 2, xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, có tổng trị giá là 22.000.000đồng (hai mươi hai triệu đồng). Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”.

[3] Bị cáo thực hiện 04 vụ trộm cắp tài sản liên tục, trị giá tài sản của mỗi vụ trộm cắp đều đủ yếu tố cấu thành “Trộm trộm cắp tài sản”. Ngoài ra bị cáo có một lần bị đưa ra xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm. Bị cáo không có nghề nghiệp và tài sản nên phạm tội thuộc trường hợp “Có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

[4] Tội phạm thuộc loại nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ đồng thời còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Bị cáo đã có một tiền án về tội xâm phạm sở hữu nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân, vì tham lam, muốn có tiền tiêu xài mà không phải lao động, bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Do đó, cần có hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân của bị cáo để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, cũng cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì quá trình điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn.

[5] Về xử lý vật chứng:

[5.1] Chiếc xe mô tô kiểu dáng Wave, gắn biển 76M4-92xx bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội, bị cáo khai nhận mượn của bạn tên T không rõ nhân thân, lai lịch, là vật chứng của vụ án nhưng chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên cần giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng thông báo tìm chủ sở hữu. Hết thời hạn đăng thông báo mà không tìm được chủ sở hữu thì tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

[5.2] 01 cái bao màu trắng dùng để đựng gương chiếu hậu lấy trộm là công cụ phạm tội, hiện không còn giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu hủy [6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại được tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xét.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Minh T 03 (ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/11/2022.

[2] Căn cứ điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

[2.1] Tịch thu tiêu hủy 01 bao màu trắng có kích thước khoảng (55x85) cm (dùng để đựng bảy gương chiếu hậu lấy trộm), tình trạng đã qua sử dụng;

[2.2] Giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh đăng thông báo tìm chủ sở hữu chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONLEI, số loại C110 (giống loại xe Wave), màu xanh, biển số 76M4-92xx, số máy: HD1P50FMH-Y0165192, số khung không xác định, tình trạng đã qua sử dụng. Hết thời hạn 01 năm kể từ ngày đăng thông báo mà không tìm được chủ sở hữu thì tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

(Toàn bộ bộ vật chứng theo phiếu nhập kho số 2023-NK020 ngày 10/02/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh)

[3] Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trần Minh T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

[5] Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 25/2023/HS-ST

Số hiệu:25/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về