Bản án về tội trộm cắp tài sản số 22/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 22/2021/HS-ST NGÀY 15/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 3 năm 2021 tại Toà án nhân dân huyện C, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 09/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2021/QĐXXST - HS ngày 25 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

NGUYN VĂN Đ, sinh năm 1990 tại P; Nơi ĐKHKTT: Khu 1, xã Hùng Đ (nay là xã Lam S), huyện Tam N, tỉnh P; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 5/12; Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1964; Vợ Quách Thị N; con có một người sinh năm 2018; Tiền sự: Không. Tiền án: 02 (Bản án hình sự sơ thẩm số 554/2017/HSST ngày 27/12/2017 bị Toà án nhân dân thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai xử phạt 04 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2019/HSST ngày 24/7/2019 bị Toà án nhân dân huyện C, tỉnh B xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”); Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/10/2020 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Bị hại: Công ty TNHH CPV F Địa chỉ: KCN B B, xã Minh T, huyện Chơn Th, tỉnh B.

Người đại diện theo pháp luật của công ty: Ông S

Người đại diện theo ủy quyền của Công ty: Ông Nguyễn Trọng K, sinh năm 1992; Địa chỉ cư trú: Thôn 1, xã Đoàn K, huyện Bù Đ, tỉnh B. (Xin vắng mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Quách Thị N, sinh năm 1990; Nơi ĐKHKTT: Khu 1, xã Hùng Đ (nay là xã Lam S), huyện Tam N, tỉnh P;

Chỗ ở hiện nay: Ấp Thủ C, xã Thành T, huyện Chơn Th, tỉnh B. (Xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn Đ là người nghiện ma tuý. Đ có hai tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”. Sau khi chấp hành án xong Đ làm công nhân cho Công ty TNHH CPV F có địa chỉ tại KCN B, xã Minh T, huyện Chơn Th, tỉnh B.

Khoảng 23 giờ ngày 27 tháng 10 năm 2020, Đ đi đến khu vực nhà xe của Ban giám đốc công ty TNHH CPV F rồi lén lút, bí mật lấy một xe đạp thể thao nhãn hiệu SURLY, màu xanh mang ra hàng rào, khiêng xe bỏ ra ngoài hang rào, cất giấu. Sau đó, Đ quay vào khu vực nhà kho của công ty, mở tủ lấy trộm một máy mày thẳng, loại cầm tay, nhãn hiệu BOSCH GGS28CE 650W màu xanh; một máy mài góc loại cầm tay, nhãn hiệu BOSCH GWS 900-100 màu xanh; một máy khoan loại cầm tay, nhãn hiệu DEWALT 72V màu vàng xanh rồi mang ra tường rào cất giấu. Đ quay vào công ty ngủ đến 06 giờ sáng. Đ đi ra khu vực cất giấu tài sản lấy trộm trước đó mang máy khoan và máy mài đến chân cầu vượt thuộc xã Thành Tâm tìm người tiêu thụ. Tại đây, Đ bán một máy mài góc nhãn hiệu BOSCH GWS 900-100 màu xanh cho một người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch với giá 1.000.000 đồng, riêng xe đạp và máy mài còn lại thì Đ mang về cất giấu tại phòng trọ.

Tại kết luận định giá tài sản số 118/KLĐG-HĐĐGTS ngày 05 tháng 11 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C xác định:

+ Một xe đạp thể thao nhãn hiệu SURLY, màu xanh trị giá 21.000.000 đồng.

+ Một máy mày thẳng, loại cầm tay, nhãn hiệu BOSCH GGS28CE 650W màu xanh trị giá 2.000.000 đồng.

+ Một máy mài góc loại cầm tay, nhãn hiệu BOSCH GWS 900-100 màu xanh trị giá 800.000 đồng.

+ Một máy khoan loại cầm tay, nhãn hiệu DEWALT 72V màu vàng xanh trị giá 1.500.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản bị cáo Đ chiếm đoạt là 25.300.000 đồng.

Vật chứng vụ án: Một xe đạp thể thao nhãn hiệu SURLY, màu xanh; một máy mày thẳng, loại cầm tay, nhãn hiệu BOSCH GGS28CE 650W màu xanh và một máy khoan loại cầm tay, nhãn hiệu DEWALT 72V màu vàng xanh đã được thu hồi trả cho người bị hại.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Quách Thị N đã bồi thường số tiền 1.500.000 đồng cho công ty TNHH CPV F.

Bản cáo trạng số 18/CTr-VKS, ngày 01 tháng 02 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; Điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản” và xử phạt bị cáo mức án từ 03 đến 04 năm tù.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B đã truy tố. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận và kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Đại diện theo ủy quyền của bị hại là anh Nguyễn Trọng K và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Quách Thị N có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy, việc vắng mặt người bị hại không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên căn cứ vào khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.

[3]. Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản khám nhiệm hiện trường, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng cũng như phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Với mục đích muốn có tiền bất chính để tiều xài nên khoảng 23 giờ ngày 27 tháng 10 năm 2020, tại công ty TNHH CPV F thuộc KCN B B, xã Minh T, huyện Chơn Th, tỉnh B, bị cáo Nguyễn Văn Đ lợi dụng sơ hở khi quản lý tài sản của người bị hại đã lén lút, bí mật chiếm đoạt một xe đạp thể thao nhãn hiệu SURLY, màu xanh; một máy mày thẳng, loại cầm tay, nhãn hiệu BOSCH GGS28CE 650W màu xanh; một máy mài góc loại cầm tay, nhãn hiệu BOSCH GWS 900-100 màu xanh; một máy khoan loại cầm tay, nhãn hiệu DEWALT 72V màu vàng. Kết luận định giá tài sản số 118/KLĐG-HĐĐGTS ngày 05 tháng 11 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C xác định tổnggiá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 25.300.000 đồng.

Bị cáo từng bị xét xử về hành vi “Trộm cắp tài sản” với tình tiết “tái phạm”, nay tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Do đó, Cáo trạng số: 18/CTr-VKS, ngày 01 tháng 02 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4]. Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4.2]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo đã tác động gia đình khắc phục hậu quả. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các Điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5]. Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người không có việc làm, thu nhập ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo đã nhiều lần xét xử và thời gian giam giữ, cải tạo dài, bị cáo phải lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân để trở thành người công dân có ích cho xã hội nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Điều này thể hiện, bị cáo có tính coi thường pháp luật nên cân phai xư phat bi cao môt mưc hinh phat nghiêm khắc để giao duc , cải tạo bi cao va cũng để giáo dục, phòng ngừa chung trong xã hội.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B về tội danh, điều luật áp dụng là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6]. Về trách nhiệm dân sự:

Công ty TNHH CPV F đã nhận lại tài sản bị mất, nhận bồi thường của gia đình bị cáo và không có yêu cầu khác nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về vật chứng của vụ án:

Một xe đạp thể thao nhãn hiệu SURLY, màu xanh; Một máy mày thẳng, loại cầm tay, nhãn hiệu BOSCH GGS28CE 650W màu xanh; một máy mài góc loại cầm tay, nhãn hiệu BOSCH GWS 900-100 màu xanh và một máy khoan loại cầm tay, nhãn hiệu DEWALT 72V màu vàng xanh bị cáo Đ trộm cắp đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra trả lại cho bị hại nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[9]. Án phí hình sự sơ thẩmbị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; Điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/10/2020.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 22/2021/HS-ST

Số hiệu:22/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chơn Thành - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về