TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG – THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN
BẢN ÁN 221/2021/HS-ST NGÀY 27/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 12 năm 2021, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số: 201/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 224/2021/QĐXXST-HS ngày 13-12-2021 đối với:
Bị cáo: Võ Đình T (tên gọi khác: Cu B), sinh năm 1986 tại Ninh Thuận; Nơi cư trú: Khu phố 3, phường Đạo L, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ văn hóa: 0/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Đình R và bà Nguyễn Thị M; Tiền án, Tiền sự: không.
Nhân thân:
Bị Toà án nhân dân tỉnh Ninh Thuận xử phạt 12 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích và 09 tháng tù về tội Cố ý làm hư hỏng tài sản. Tổng hợp hình phạt buộc phải chấp hành chung của 2 tội là 21 tháng tù theo Bản án số 13/2008/HSPT ngày 14-3-2008. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 26-8- 2009, đã nộp án phí HSST và DSST.
Bị Công an phường Mỹ Đông, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm xử phạt vi phạm hành chính số tiền 150.000đồng về hành vi gây mất trật tự công cộng theo Quyết định ngày 02-3-2012.
Bị Công an phường Phước Mỹ, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000đồng về hành vi trộm cắp tài sản theo Quyết định số 16/QĐ-XPVPHC ngày 22-1-2018.
Bị Công an phường Kinh Dinh, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm xử phạt vi phạm hành chính số tiền 200.000đồng về hành vi gây mất trật tự ở khu dân cư theo Quyết định số 000331/QĐ-XPHC ngày 01-7-2019.
Bị cáo bị tạm giữ ngày 08-9-2021, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm (có mặt).
Bị hại: Chị Nguyễn Thị P, sinh năm: 2000 (có đơn xét xử vắng mặt). Nơi cư trú: Khu phố 1, phường Mỹ B, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 14 giờ 40 phút, ngày 08-6-2021, Võ Đình T điều khiển xe mô tô biển số 68S9 - 2617, đi đến quán cà phê của chị Nguyễn Thị P để mua cà phê. Khi đến quán, T thấy chị P đang nằm ngủ trên võng, quan sát thấy dưới nền nhà có để 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu bạc và trên mặt tủ lạnh trong quán có để 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8, màu đen. T quan sát thấy chị P đã ngủ say và không ai trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp, lét lút đi đến lấy điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu bạc, rồi tiếp tục lấy 01 điện thoại di dộng hiệu Iphone 8, màu đen, sau đó lên xe mô tô bỏ đi. Sau khi lấy trộm được 02 điện thoại trên, T mang đến cửa hàng điện thoại D PC ở xã An H, huyện Ninh P gặp ông Trần Như D là chủ cửa hàng, bán 02 điện thoại trên với giá 1.800.000 đồng, số tiền trên T tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 08-9-2021, T biết được Cơ quan Công an đang tìm nên T đã đến Công an thành phố Phan Rang-Tháp Chàm trình diện và khai nhận hành vi trộm cắp tài sản của mình.
Tại Bản kết luận định giá tài sản (đối với tài sản bị thất lạc hoặc không còn) số 65/KLTS ngày 10-9-2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm kết luận: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 8, màu đen, không thu hồi được, có giá trị thực vào thời điểm bị trộm cắp là 6.500.000đồng (sáu triệu, năm trăm ngàn đồng); 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu bạc, không thu hồi được, có giá trị thực vào thời điểm bị trộm cắp là 2.100.000 đồng (hai triệu, một trăm ngàn đồng).
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, hay khiếu nại gì về kết luận định giá tài sản nêu trên.
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung vụ án đã nêu.
Tại Đơn xin xét xử vắng mặt, bị hại Nguyễn Thị P yêu cầu về hình sự: đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật; về dân sự: yêu cầu bị cáo Tuấn bồi thường số tiền 8.600.000đồng.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Phan Rang – Tháp Chàm giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng số 200/CT-VKSPR ngày 17-11-2021: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Võ Đình T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Võ Đình T từ 12 - 15 tháng tù.
Về dân sự: Đề nghị HĐXX tuyên buộc Võ Đình T bồi thường số tiền 8.600.000đồng cho chị Nguyễn Thị P.
Về biện pháp tư pháp: Đề nghị HĐXX tiếp tục giao xe mô tô biển số 68S9-2617 hiệu Majesty, màu đen cho Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục tạm giữ để điều tra, làm rõ xử lý sau.
Bị cáo không tranh luận; lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP. Phan Rang – Tháp Chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. Phan Rang – Tháp Chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 14 giờ 40 phút ngày 08-6-2021, tại Quán cà phê của chị Nguyễn Thị P thuộc khu phố 1, phường Mỹ B, thành phố P, Võ Đình T đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8, màu đen và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu bạc; Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 8.600.000đồng của chị Nguyễn Thị P. Hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Cáo trạng số 200/CT-VKSPR ngày 17-11-2021 của Viện kiểm sát nhân dân TP. Phan Rang – Tháp Chàm truy tố bị cáo Võ Đình T là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng do mục đích tư lợi nên vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo:
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng có nhân thân xấu. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và ra đầu thú nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ Luật hình sự.
[5] Về hình phạt chính:
Bị cáo đã từng bị kết án và nhiều lần bị xử phạt hành chính nhưng không chịu tu dưỡng bản thân nay lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có thu nhập thấp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.
[7] Đối với ông Trần Như D, là người T khai đã mua 02 điện thoại trên từ Tuấn. Do thời gian đã lâu, ông D không nhớ việc có mua 02 điện thoại từ T và thời điểm mua bán không có người chứng kiến hay chứng cứ nào chứng minh việc ông Trần Như D đã mua 02 điện thoại này, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm không đề nghị xử lý là có cơ sở nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8, màu đen và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu bạc, T đã bán cho ông Trần Như D, Cơ quan Cảnh sát điều tra không thu hồi được nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Đối với 01 (một) xe mô tô biển số 68S9 - 2617, hiệu Majesty, màu đen, quá trình điều tra ban đầu xác định chủ sở hữu là ông Nguyễn Văn T, địa chỉ: Thị T, thị trấn Sóc S, huyện Hòn Đ, tỉnh Kiên Giang. Hiện nay vẫn chưa làm việc được với ông T nên giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm tiếp tục tạm giữ, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
- Đối với 01 thẻ nhớ Micro SD 8GB ghi lại diễn biến hành vi trộm cắp điện thoại của Tuấn vào ngày 08-6-2021 mà chị Nguyễn Thị P đã giao nộp là đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án và tại Biên bản lấy lời khai ngày 14-12-2021 chị P không yêu cầu nhận lại thẻ nhớ này nên cần lưu trữ cùng với hồ sơ vụ án.
[9] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bị hại P yêu cầu bị cáo T bồi thường số tiền 8.600.000đồng, bị cáo T đồng ý. Tại đơn xét xử vắng mặt và tại phiên toà bị hại và bị cáo vẫn giữ nguyên thoả thuận này và đề nghị Toà án ghi nhận thoả thuận. Bị cáo Võ Đình T đồng ý bồi thường cho bị hại Nguyễn Thị P số tiền 8.600.000 đồng (tám triệu, sáu trăm nghìn đồng).
[10] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[11] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Trước khi mở phiên tòa, bị cáo, bị hại thỏa thuận được với nhau về việc bồi thường thiệt hại và đề nghị Tòa án ghi nhận nên bị cáo không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 585, 586 và 589 Bộ luật Dân sự; Điểm a, f khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Bị cáo Võ Đình T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt: Bị cáo Võ Đình T 15 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 08-9-2021.
Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị hại Nguyễn Thị P và bị cáo Võ Đình T. Bị cáo Võ Đình T đồng ý bồi thường cho bị hại Nguyễn Thị P số tiền 8.600.000đồng (tám triệu, sáu trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Người được thi hành án và người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Về án phí: Bị cáo Võ Đình T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể ngày Bản án sơ thẩm được tống đạt hợp lệ./.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 221/2021/HS-ST
Số hiệu: | 221/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về