TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 220/2022/HSST NGÀY 20/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 216/2022/TLST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 216/2022/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Đình Đ; sinh năm 1988 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: số 1B khu lao động H, phường Q, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: tự do; trình độ học vấn: lớp 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Đình H và bà Trần Thị T; tiền án: ngày 05-02- 2021, Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 15 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản” (chấp hành xong hình phạt tù ngày 29-01-2022); tiền sự: không; nhân thân: ngày 27-10-2004 Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 14-3-2006 Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 29-6-2007 Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 13-4-2010 Tòa án nhân dân huyện Thuận An tỉnh Bình Dương xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 24-4-2017 bị Tòa án nhân dân thành phố N áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng; bị bắt, tạm giữ ngày 10-7-2022, chuyển tạm giam ngày 19-7-2022; có mặt.
- Bị hại: Trường Mầm non H, địa chỉ: 179 H phường V thành phố N, tỉnh Nam Định.
Người đại diện hợp pháp: Bà Nguyễn Thị Hồng H - Chức vụ: Phó Hiệu trưởng (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 01 giờ 20 phút ngày 10-7-2022, Nguyễn Đình Đ đi xe đạp màu trắng lang thang trên địa bàn thành phố N tìm kiếm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khi đi đến khu vực cổng trường Mầm non H, địa chỉ: 179 H phường V thành phố N, Đ phát hiện chiếc bậc lên xuống của nhà trường làm bằng kim loại hình chữ nhật, kích thước khoảng 130 x 55 cm được đặt nối từ vỉa hè xuống lòng đường Hàn Thuyên, phần mối hàn neo giữ bậc đã bị han gỉ. Đ quan sát thấy xung quanh đêm muộn không có người qua lại nên dựng xe đạp tại lòng đường Hàn Thuyên, dùng hai tay giật mạnh chiếc bậc lên xuống rời khỏi thanh sắt gắn vào vỉa hè rồi đặt lên giá đèo hàng phía sau xe đạp và điều khiển xe đi về phía đường H, thành phố N.
Khoảng 01 giờ 30 phút cùng ngày, khi Đ điều khiển xe đạp chở chiếc bậc lên xuống bằng kim loại đi đến khu vực trước cửa số nhà 187 H phường Q, thành phố N thì bị tổ công tác của Công an phường Q, thành phố N phát hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra, bắt giữ. Cùng ngày, cô Nguyễn Thị Hồng H là Phó Hiệu trưởng trường Mầm non H, đại diện cho trường đến Công an phường V, thành phố N để trình báo.
Bản Kết luận định giá tài sản số 44/KL-HĐĐGTS ngày 15-7-2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố N kết luận: Bậc lên xuống bằng kim loại dài 130 cm, rộng 55 cm trọng lượng 27kg là vật chứng trong vụ án trị giá là 1.100.000 đồng.
Sau khi định giá Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc bậc lên xuống bằng kim loại cho Trường Mầm non H, đại diện hợp pháp của nhà trường đã nhận lại tài sản và không có đề nghị gì khác.
Bản Cáo trạng số 219/CT-VKS ngày 30 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Nguyễn Đình Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Đình Đ khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Đình Đ theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”; xử phạt bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đình Đ và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ lời khai của bị cáo Nguyễn Đình Đ, lời khai của bị hại và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án; đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 10-7-2022, Nguyễn Đình Đ đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của Trường mầm non Hàn Thuyên tại số 179 đường Hàn Thuyên phường Vị Hoàng thành phố N một chiếc bậc lên xuống bằng kim loại dài 130 cm, rộng 55 cm, trọng lượng 27kg, trị giá 1.100.000 đồng. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo hộ, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý. Bị cáo đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N là có căn cứ.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi của bị cáo gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu, đã 04 lần bị kết án (đã được xóa án tích) và 01 lần bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính (đã được xóa tiền sự). Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về vấn đề dân sự: Bị hại là Trường mầm non Hàn Thuyên đã nhận lại tài sản và không đề nghị giải quyết vấn đề bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
[6] Đối với chiếc xe đạp Nguyễn Đình Đ sử dụng đi trộm cắp tài sản, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe cho chủ sở hữu là chị Phạm Thị Lan Anh là đúng quy định của pháp luật.
[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đình Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đình Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình Đ 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 10-7-2022.
2. Án phí: Bị cáo Nguyễn Đình Đ phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
3. Quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Đình Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại là Trường mần non Hàn Thuyên được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 220/2022/HSST
Số hiệu: | 220/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về