Bản án về tội trộm cắp tài sản số 21/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THẤT, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 21/2021/HS-ST NGÀY 22/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện T, Thành phố H, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 15/2021/HSST ngày 01 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2021/HSST-QĐ ngày 17/3/2021, đối với bị cáo:

Cấn Văn M, sinh năm 1984, nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: thôn C, xã B, huyện T, Thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Cấn Văn Ch (đã chết) và bà Nguyễn Thị V; vợ: Nguyễn Thị H1; con: Có 03 con, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2011; Tiền án: Có một tiền án, Bản án hình sự phúc thẩm số 806/2019/HS- ST ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố H xử phạt Cấn Văn M 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội Trộm cắp tài sản (Chưa được xóa án tích); Tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 22/12/2020, tạm giam từ ngày 31/12/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1- Công an Thành phố H. Danh chỉ bản số 009 do Công an huyện T lập ngày 23/12/2020. Số giam: 633A2B9. Có mặt.

-Bị hại:

+ Anh Lê Văn S- sinh năm 1987. Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn Y, xã A, huyện D, tỉnh V.

+ Anh Lê Văn N- sinh năm 1990. Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn Y, xã A, huyện D, tỉnh V.

- Người làm chứng:

+ Anh Cấn Văn Đ- sinh năm 1977. Vắng mặt.

+ Anh Cấn Văn N1- sinh năm 1981. Vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Thôn C, xã B, huyện T, H.

+ Ông Kiều Văn Ph- sinh năm 1965.

Địa chỉ: Thôn Ph, xã C, huyện T, H. Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Văn H- sinh năm 1991.

Địa chỉ: Thôn Kh, xã Đ, huyện T, H. Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Đức Ng- sinh năm 2000.

Địa chỉ: Khu 11, xã Đ, huyện H, tỉnh P. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 16/12/2020, Cấn Văn M đi đến khu nhà trọ của anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1970, trú tại: Thôn Đ, xã B, huyện T với mục đích trộm cắp tài sản. M quan sát thấy khu nhà trọ của anh T đóng cửa, không có người nên đã trèo từ phía sau nhà để vào khu nhà trọ. Tại đây, M thấy 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh trắng, BKS: 88D1 - xxxxx của anh Lê Văn N, sinh năm 1990 và 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh trắng, không đeo biển kiểm soát của anh Lê Văn S, sinh năm 1987 (anh N và anh S là hai anh em cùng trú tại: xã A, huyện D, tỉnh V) đang để ở sân vẫn cắm chìa khóa ở ổ khóa điện, M nảy sinh ý định trộm cắp 02 chiếc xe mô tô trên. M rút chùm chìa khóa đang cắm ở xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter không đeo biển kiểm soát rồi đi ra ngoài dùng chìa trong chùm chìa khóa vừa lấy được để mở cửa ra vào của khu phòng trọ. M quan sát xung quanh không thấy ai thì lấy trộm xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter không đeo biển kiểm soát rồi đi đến quán Karaoke Ngọc Trai ở thôn Ph, xã C, huyện T gặp anh Nguyễn Văn H- sinh năm 1991, trú tại: thôn Kh, xã Đ, huyện T là quản lý và gửi xe ở đó. M nhờ anh Nguyễn Đức Ng- sinh năm 2000, trú tại: xã Đ, huyện H, tỉnh P là nhân viên quán Karaoke Ngọc Trai chở về nhà. Sau đó, M quay lại khu phòng trọ tiếp tục lấy trộm chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, BKS: 88D1 - xxxxx rồi đi đến gửi tại nhà anh Kiều Văn Ph- sinh năm 1965, trú tại: Thôn Ph, xã C, huyện T. M đi bộ từ nhà anh Ph đến quán Karaoke Ngọc Trai lấy xe mô tô đã trộm trước đó mang đến gửi ở nhà anh Ph rồi nhờ anh Ng chở về nhà. Sau khi phát hiện bị mất trộm tài sản, anh N và anh S đã đến Công an xã B trình báo sự việc.

Chiều ngày 17/12/2020, khi thấy lực lượng Công an xã B đến nhà, M chạy sang nhà anh trai là Cấn Văn N1- sinh năm 1981, trú tại: Thôn C, xã B và nói về việc M đã trộm cắp 02 xe mô tô trên. Anh N1 và anh Cấn Văn Đ- sinh năm 1977, trú tại: Thôn C, xã B (cũng là anh trai M) đi cùng M đến nhà anh Ph lấy 02 chiếc xe mô tô trên mang về phòng trọ trả lại cho anh N và anh S. Đến ngày 21/12/2020, M đến Cơ quan Công an đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

* Tang vật thu giữ:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh trắng, BKS: 88D1 - xxxxx, số khung: 024443, số máy: 1024449.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh trắng, BKS: 88D.xxxxx, số khung: 142285, số máy: 1142296. (Do quá trình sử dụng bị long ốc vít biển kiểm soát nên tại thời điểm mất trộm, xe không đeo biển kiểm soát).

- 01 chùm chìa khóa gồm: 01 chiếc chìa khóa xe mô tô màu đen và 04 chiếc chìa khóa màu trắng.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 93/KL-HĐĐG, ngày 24/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T kết luận 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh trắng, BKS:88D1 - xxxxx, số khung: 024443, số máy: 1024449 có giá trị: 10.860.000đ (Mười triệu tám trăm sáu mươi nghìn đồng); 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh trắng, xe không đeo biển kiểm soát, số khung: 142285, số máy: 1142296 có giá trị: 11.600.000đ (Mười một triệu sáu trăm nghìn đồng). Tổng giá trị tài sản Cấn Văn M chiếm đoạt là 22.460.000đ (Hai mươi hai triệu bốn trăm sáu mươi nghìn đồng).

Đối với anh Nguyễn Văn H và anh Kiều Văn Ph là những người cho Cấn Văn M gửi nhờ xe mô tô, anh Nguyễn Đức Ng là người chở Cấn Văn M từ xã C về thôn C nhưng anh H, anh Ph và anh Ng đều không biết các xe mô tô M gửi là xe do M trộm cắp mà có, nên Cơ quan điều tra không xem xét trách nhiệm hình sự đối với họ.

Xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã trả lại anh N và anh S hai chiếc xe mô tô và chùm chìa khóa do Cấn Văn M trộm cắp.

Về dân sự: Anh Lê Văn S và anh Lê Văn N đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường dân sự nữa.

Tại phiên tòa, bị cáo Cấn Văn M khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Bị cáo nhận thấy hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Bản cáo trạng số 22/CT-VKS ngày 26/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo Cấn Văn M về tội “ Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điều 38; các điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điểm g, Điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55, Điều 56 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Cấn Văn M từ 24 đến 30 tháng tù. Tổng hợp hình phạt 12 tháng tù tại Bản án hình sự phúc thẩm số 806/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố H, buộc bị cáo M phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án từ 36 đến 42 tháng tù.

Miễn hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã trả lại các vật chứng cho chủ sở hữu hợp pháp nên không phải xem xét.

Về dân sự: Bị hại không có yêu cầu bồi thường về tài sản nên không phải xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, bị cáo Cấn Văn M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản án đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu mà Cơ quan điều tra đã thu thập trong hồ sơ, tang vật của vụ án, lời khai bị hại, người làm chứng. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Cấn Văn M là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Do vụ lợi cá nhân nên ngày 16/12/2020 lợi dụng sơ hở của chủ tài sản, Cấn Văn M đã có hành vi lén lút trộm cắp chiếc xe môtô Yamaha Exciter, màu xanh trắng, BKS: 88D1 - xxxxx của anh Lê Văn N và chiếc xe mô tô Yamaha Exciter, màu xanh trắng, BKS: 88D.xxxxx của anh Lê Văn S để tại khu nhà trọ của anh Nguyễn Văn T ở thôn Đ, xã B, huyện T. Tổng giá trị tài sản mà Cấn Văn M trộm cắp được là 22.460.000đ (Hai mươi hai triệu bốn trăm sáu mươi nghìn đồng).

Hành vi trên của bị cáo Cấn Văn M đã phạm tội “ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo Cấn Văn M về tội danh và điều luật viện dẫn như trên là đúng pháp luật.

[3]. Về hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của bị cáo M là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, gây mất trật tự an ninh trên địa bàn huyện. Bị cáo M có nhân thân xấu nên phải có hình phạt nghiêm cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo thành người tốt và phòng, chống tội phạm nói chung.

Về tình tiết tăng nặng: Trong khoảng thời gian buổi chiều ngày 16/12/2020 bị cáo M có hai lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản (Lần một là chiếc xe mô tô của anh Lê Văn S có trị giá 11.600.000 đồng, lần hai là chiếc xe mô tô của anh Lê Văn N có trị giá 10.860.000 đồng), nên bị cáo M phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điểm g Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Lần này bị cáo M phạm tội đang trong thời gian thử thách án treo của Bản án hình sự phúc thẩm số 806/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố H nên thuộc trường hợp tái phạm, do vậy bị cáo M phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điểm h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội, bị cáo M đã tự nguyện mang tài sản trả lại cho bị hại nhằm khắc phục hậu quả. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo M được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo Điểm b, Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Sau khi phạm tội, bị cáo M đã tự nguyện ra đầu thú tại cơ quan Công an, nên bị cáo M được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ hình phạt theo Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Áp dụng các điều 55, 56 của Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án hình sự phúc thẩm số 806/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố H để buộc bị cáo M phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, kinh tế khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[4]. Đối với anh Nguyễn Văn H và anh Kiều Văn Ph là những người cho Cấn Văn M gửi nhờ xe mô tô, anh Nguyễn Đức Ng là người chở Cấn Văn M từ xã C về thôn C nhưng anh H, anh Ph và anh Ng đều không biết hành vi trộm cắp tài sản của M, nên Cơ quan điều tra không xem xét trách nhiệm hình sự đối với họ là đúng pháp luật.

[5]. Về xử lý vật chứng: Toàn bộ vật chứng của vụ án đã được Cơ quan điều tra xử lý đúng theo quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Anh Lê Văn S và anh Lê Văn N đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường dân sự, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố bị cáo Cấn Văn M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ Khoản 1 Điều 173; các điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; các điểm g, h Khoản 1 Điều 52; Điều 55; Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Cấn Văn M 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án hình sự phúc thẩm số 806/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố H, buộc bị cáo Cấn Văn M phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/12/2020, được trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 03/5/2019 đến ngày 12/5/2019 theo Bản án hình sự phúc thẩm số 806/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố H.

Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Cấn Văn M phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 21/2021/HS-ST

Số hiệu:21/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thất - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về