Bản án về tội trộm cắp tài sản số 204/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 204/2022/HS-ST NGÀY 10/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai, theo thủ tục rút gọn vụ án hình sự thụ lý số: 172/2022/HSST ngày 25 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 227/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 6 năm 2022, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn N, sinh năm: 1969, tại Tiền Giang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường A, Khu phố B, thị trấn C, huyện D , Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: đường X, Phường Y, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Chạy xe ôm; con ông Nguyễn Văn M(©) và bà Trần Thị T (©); bị cáo là con thứ 05 trong gia đình có 08 anh chị em; vợ: Nguyễn Thị Thu S, sinh năm 1983 và 03 con, lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/4/2022 đến ngày 30/4/2022 thì được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Chị Trần Thị Ánh T, sinh năm: 1998.

Địa chỉ: Số XX đường H, phường P, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 21/4/2022, Nguyễn Văn N điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave S màu đen, biển số 5xx4 - 7**5 chạy xe ôm trên đường về, khi đến ngã ba đường V và Đường ** thuộc Khu phố Y, phường L, thành phố Thủ Đức thấy chị Trần Thị Ánh T (sinh năm: 1998) đang đứng bán nước ép trái cây (loại xe bán nước ép trái cây) ở lề đường V nên N dừng xe và kêu Chị T bán 02 ly nước ép thơm mang đi. Trong lúc chờ Chị T làm nước ép, N phát hiện 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 màu tím của Chị T để trong tủ xe nước ép nên nảy sinh ý định lấy trộm điện thoại để sử dụng. N kêu Chị T làm thêm 02 ly nước ép thơm đề chờ cơ hội lấy trộm điện thoại. Lợi dụng Chị T quay mặt ra sau xe nước ép để lấy đá, N đi bộ đến xe nước ép trái cây dùng tay phải thò vào trong tủ xe lấy trộm 01 điện thoại di động Iphone 11 màu tím của Chị T bỏ vào túi áo sơ mi bên trái phía trước ngực N đang mặc rồi đi bộ ra xe mô tô dựng cách đó khoảng 02 mét định bỏ đi thì chị bị Tuyết phát hiện mất điện thoại nên chạy đến giữ N lại và nói “Chú ơi trả điện thoại cho con”. Lúc này, N lấy điện thoại di động Iphone 11 màu tím trong túi áo trả lại cho Chị T. Chị T tri hô “Cướp, cướp” thì có anh Lê Phi L và vợ là chị Nguyễn Thị T đang ở tiệm sửa xe mô tô cách khoảng 5 mét đến hỗ trợ bắt giữ N cùng vật chứng giao Công an phường Hiệp Bình Chánh lập biên bản phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Thủ Đức, Nguyễn Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi như trên.

Kết luận định giá của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự UBND thành phố Thủ Đức kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 64Gb màu tím có giá trị là 8.000.000 đồng.

Vật chứng vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 64Gb màu tím đã trả lại cho chị Trần Thị Ánh Tuyết.

- 01 xe mô tô hiệu Honda Wave màu đen biển số 5*x4-7**5 do chị Nguyễn Thị Thu S đứng tên chủ sở hữu. N mượn xe của chị S để chạy xe ôm. Ny 09/5/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức trả lại xe mô tô trên cho chị S.

Trách nhiệm dân sự: Chị T đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm và có đơn bãi nại cho Nguyễn Văn N.

Tại Cáo trạng số: 178/CT-VKS ngày 20 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Nguyễn Văn N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức vẫn giữ quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Tòa án:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N từ 09 (chín) tháng đến 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách gấp đôi thời hạn tù.

Tại phiên tòa, bị cáo đồng ý với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát và luận tội của Kiểm sát viên, không tranh luận.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đã biết lỗi của mình, rất hối hận về hành vi tham lam nhất thời. Bị cáo mong Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có cơ hội sửa sai, lao động nuôi gia đình, con cái.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị hại là chị Trần Thị Ánh T đã nhận lại tài sản, có đơn bãi nại và không có ý kiến gì khác nên vắng mặt tại phiên tòa. Xét việc bị hại vắng mặt không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án chấp nhận xét xử vắng mặt bị hại.

[2] Xét trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng pháp luật.

[3] Xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ... cùng các tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan điều tra đã thu thập được trong quá trình điều tra về hành vi, thời gian, không gian, địa điểm xảy ra tội phạm, phù hợp với cáo trạng của Viện kiểm sát nên có cơ sở xác định: Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 21/4/2022, Nguyễn Văn N đã có hành vi lén lút lấy trộm 01 điện thoại di động Iphone 11 màu tím của chị Trần Thị Ánh T tại ngã ba đường Vvà Đường ** thuộc Khu phố Y, phường L, thành phố Thủ Đức có giá 8.000.000 đồng thì bị bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, gây ảnh hưởng xấu đến an toàn xã hội. Bị cáo có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng tham lam, lợi dụng sự sơ hở rồi cố ý, lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi của bị cáo thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan sai.

[4] Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi không thuộc trường hợp định khung tăng nặng hình phạt khác nên bị đưa ra xét xử theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại và được bị hại làm đơn bãi nại; bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Bên cạnh đó, trong thời gian được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo chấp hành tốt chính sách, pháp luật ở địa phương, có khả năng tự cải tạo nên không cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội. Do đó, Tòa án áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục, đồng thời thể hiện chính sách khoan hồng của nhà nước và pháp luật.

[6] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 64Gb màu tím đã trả lại cho chị Trần Thị Ánh T là có căn cứ.

- 01 xe mô tô hiệu Honda Wave, màu đen, biển số 5*x4-7**5 do chị Nguyễn Thị Thu S đứng tên chủ sở hữu. N mượn xe của chị S để chạy xe ôm nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức trả lại xe mô tô trên cho chị S là có căn cứ.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, - Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N: 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng, tính từ ngày tuyên án.

- Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân Phường 16, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68 và Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

- Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người được cho hưởng án treo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 55, Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

- Tiếp tục duy trì Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 168/2022/HSST-BPNC ngày 25/5/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức đối với bị cáo cho đến khi bị cáo nhận được quyết định thi hành án của Cơ quan có thẩm quyền.

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, - Buộc bị cáo nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, - Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

- Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

(Đã giải thích về chế định án treo cho bị cáo) 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 204/2022/HS-ST

Số hiệu:204/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về