Bản án về tội trộm cắp tài sản số 19/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 19/2022/HS-ST NGÀY 16/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 18/2022/HS-ST ngày 7 tháng 04 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số18/2022/QĐXXST - HS ngày 19 tháng 04 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Phước Đ; giới tính: Nam; Sinh ngày: 20/10/1981 tại: TP. Đ;Nơi ĐKHKTT: Tổ 31 (tổ 33 cũ), phường A, quận S, TP. Đ. Chổ ở hiện nay: Không có nơi cư trú ổn định. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Văn hóa: 12/12;Tiền sự: Không; Tiền án: 03 tiền án, cụ thể:

- Bản án hình sự phúc thẩm số 513 ngày 06/9/2000 của Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xử phạt Nguyễn Phước Đ 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2002/HSST ngày 17/6/2002 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà xử phạt Nguyễn Phước Đ 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết tái phạm.

- Bản án Hình sự phúc thẩm số 54/2006/HSPT ngày 28/4/2006 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xử phạt Nguyễn Phước Đ 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết tái phạm nguy hiểm và có tính chuyên nghiệp.

Con ông: Nguyễn Văn T (đã chết); Con bà: Lê Thị S (còn sống); Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất.

Bị cáo bị bắt ngày 18/12/2021 hiện đang bị tạm giam có mặt tại phiên tòa Bị hại: Nhà thờ tộc H. Địa chỉ: tổ 30, phường H, quận Ng, thành phố Đ. Đại diện ông Huỳnh Bá S - sinh năm 1970. Địa chỉ: 107 Ấ, tổ 27, phường H, quận Ng, thành phố Đ. Có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Bà Trần Thị Mai C - sinh năm: 1990. Địa chỉ: Tổ 44A, phường C, quận T, thành phố Đ. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Rạng sáng ngày 18/12/2021, Nguyễn Phước Đ đi bộ đến trước khu vực Nhà thờ tộc H thuộc Tổ 30, P. H, Q. Ng, TP. Đ thấy trong nhà thờ bật điện sáng nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản trong nhà thờ. Đ trèo tường bên phải vào, thấy cửa chính nhà thờ không khóa, Đ mở cửa vào trong thấy có 3 gian thờ với nhiều đồ thờ cúng bằng đồng. Đ lấy trộm 03 bộ lư hương bằng đồng (mỗi bộ gồm 01 đế đựng lư và 01 lư hương có nắp); 03 đĩa đựng trái cây bằng đồng, 03 bình đựng hoa bằng đồng; 04 chân đèn bằng đồng (có 04 bóng đèn) đem ra để trước cổng nhà thờ. Đ mở cửa cổng bên trong (cửa không khóa) và đưa tất cả các tài sản trên đến đặt tại dãy phân cách cứng giữa đường T.

Quá trình di chuyển tài sản, Đ vứt 04 bóng đèn tại bãi đất trống trước nhà thờ. Sau đó, Đ tiếp tục mang tất cả các tài sản trên qua bãi đất trống bên kia đường T rồi bỏ vào bao ni lông, cất giấu trong bụi cỏ gần đó rồi đi bộ về chân cầu H ngủ. Đến 19h30 phút cùng ngày, Đ mượn xe mô tô nhãn hiệu Attila BKS 43D1-003.19 của một người bạn tên N (không rõ lai lịch) điều khiển xe mang theo thùng xốp đến vị trí cất giấu tài sản để lấy đi tiêu thụ thì phát hiện số tài sản trộm được chỉ còn lại 03 đĩa đựng trái cây bằng đồng, 03 lư hương bằng đồng, 01 đế đựng lư bằng đồng (tài sản đã bị mất gồm: 02 đế đựng lư bằng đồng, 04 chân đèn bằng đồng, 03 bình đựng hoa bằng đồng). Đ lấy số tài sản trộm còn lại bỏ vào thùng xốp chở đi tìm người tiêu thụ thì bị Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng kiểm tra phát hiện lập biên bản.

Tang vật thu giữ của Nguyễn Phước Đ: 03 đĩa đựng trái cây bằng đồng. 03 lư hương bằng đồng.01 đế đựng lư bằng đồng. 01 xe mô tô hiệu Attila màu đen BKS: 43D1-00319 và 01 giấy đăng ký xe mô tô mang tên Trần Thị Mai C;

01 điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Bote 8 Pro nắp sau màu xanh;- 01 thùng xốp có dán băng keo màu vàng xung quanh.

Theo Bản kết luận định giá tài sản số 84/KLĐG-HĐĐGTS ngày 22/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng xác định tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là: 19.800.000 đồng Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 19/CT-VKS- NHS ngày 06 /04 /2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Nguyễn Phước Đ về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại Điểm g Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự;

* Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng thực hành quyền công tố nhà nước vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố Nguyễn Phước Đ về tội danh như đã nói trên và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Phước Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản” - Áp dụng: Điểm g Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51; xử phạt Nguyễn Phước Đ từ 36 đến 48 tháng tù.

* Về phần xử lý vật chứng:

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Attila BKS 43D1-003.19 màu đen, số khung: 021841, số máy: 021841 do Nguyễn Phước Đ sử dụng chở tài sản trộm cắp đi tiêu thụ. Qua xác minh, xe do chị Trần Thị Mai C đứng tên trong giấy đăng ký xe. Năm 2020 chị C bán lại xe cho một người thanh niên (không rõ tên tuổi lai lịch). Hiện nay, chị C không còn là chủ sở hữu của xe này. Do đó, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng tách chiếc xe ra để tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau là phù hợp.

- Đối với 01 thùng xốp có dán băng keo màu vàng xung quanh là vật liên quan đến vụ án nhưng không còn giá trị sử dụng. Do đó, cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại Xiaomi Redmi Note 8 Pro màu xanh là điện thoại cá nhân của Nguyễn Phước Đ cần tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

* Về phần dân sự: Bị hại đã nhận lại và không có yêu cầu gì thêm nên không đề cập đến.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo cơ hội sửa sai.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, bị cáo Nguyễn Phước Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo, xét lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người bị hại và các tài liệu, chứng cứ điều tra thu thập đầy đủ có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để xác định như sau: Rạng sáng ngày 18/12/2021, Nguyễn Phước Đ đã có hành vi trộm cắp tài sản gồm: 03 bộ lư hương bằng đồng; 03 đĩa đựng trái cây bằng đồng, 03 bình đựng hoa bằng đồng;

04 chân đèn bằng đồng (có 04 bóng đèn) bằng đồng có tổng giá trị tài sản là 19.800.000 đồng. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng truy tố bị cáo Nguyễn Phước Đ về tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại Điểm g Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy hết sức liều lĩnh và táo bạo. Bị cáo lợi dụng sơ hở của người bị hại để lén lút lấy trộm 03 bộ lư hương bằng đồng; 03 đĩa đựng trái cây bằng đồng, 03 bình đựng hoa bằng đồng; 04 chân đèn bằng đồng (có 04 bóng đèn) bằng đồng có tổng giá trị tài sản là 19.800.000 đồng với mục đích bán lấy tiền chi cho nhu cầu cá nhân, bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý, xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác, đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo có 3 tiền án phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm (tại Bản án Hình sự phúc thẩm số 54/2006/HSPT ngày 28/4/2006 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xử phạt Nguyễn Phước Đ 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết tái phạm nguy hiểm và có tính chuyên nghiệp) được quy định tại Điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Do vậy cần xử phạt với bị cáo một mức án phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục chung và phòng ngừa riêng.

[4] Xét tính chất vụ án thì thấy, bị cáo còn trẻ có sức khỏe lẽ ra phải lao động lương thiện nuôi sống bản thân cũng như góp phần có ích cho xã hội, nhưng ngược lại bị cáo lười lao động muốn hưởng thụ dễ dàng mặc dù biết hành vi chiếm đoạt tài sản này là trái pháp luật. Hành vi này xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an, an toàn xã hội, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân tại địa phương.

[5] Xét về nhân thân của bị cáo thấy: Bị cáo có nhân thân xấu, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa thấy bị cáo đã khai báo thành khẩn, rõ ràng, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, người bị hại có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên cần áp dụng điểm s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS để xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi lượng hình.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 thùng xốp có dán băng keo màu vàng xung quanh bị vỡ không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

- Đối với 01 điện thoại Xiaomi Redmi Note 8 Pro màu xanh,Imei:

868909043057978 , niêm phong ký hiệu M( đã qua sử dụng) cần tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án. Toàn bộ vật chứng trên hiện đang được tạm giữ tại Chi cục thi hành án quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà năng, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 7/4/2022.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Attila BKS 43D1-003.19 màu đen, số khung: 021841, số máy: 021841 do Nguyễn Phước Đ sử dụng chở tài sản trộm cắp đi tiêu thụ. Qua xác minh, xe do chị Trần Thị Mai C đứng tên trong giấy đăng ký xe. Năm 2020 chị C bán lại xe cho một người thanh niên (không rõ tên tuổi lai lịch). Hiện nay, chị C không còn là chủ sở hữu của xe này. Do đó, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng tách chiếc xe ra để tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau là phù hợp.

[7] Về phần dân sự: Người bị hại không có yêu cầu gì thêm nên không đề cập đến.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự 200.000đ.

Xét các đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

Bị cáo Nguyễn Phước Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1/ Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS; Điểm s khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Phước Đ 03 (ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Thời gian thụ hình tính từ ngày 18/12/2021.

2/ Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên.

- Tịch thu tiêu hủy 01 thùng xốp có dán băng keo màu vàng xung quanh bị vỡ.

- Tiếp tục qui trữ 01 điện thoại Xiaomi Redmi Note 8 Pro màu xanh , Imei:

868909043057978, niêm phong ký hiệu M (đã qua sử dụng) để đảm bảo thi hành án. Toàn bộ vật chứng trên hiện đang được tạm giữ tại Chi cục thi hành án quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/4/2022.

3/ Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu 200.000đ.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích sao bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

863
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 19/2022/HS-ST

Số hiệu:19/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về