Bản án về tội trộm cắp tài sản số 146/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 146/2021/HS-ST NGÀY 19/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 106/2021/TLST-HS ngày 12 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 119/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 67/2021/HSST- QĐ ngày 27 tháng 9 năm 2021 và Thông báo mở lại phiên tòa số 81/2021/TB-TA ngày 08 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Vòng Minh T; Tên gọi khác: T Lùn; Giới tính: Nam; Sinh năm 1986 tại Đồng Nai; Nơi cư trú: Ấp 3, xã Sông Trầu, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Hoa; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 6/12; Nghề nghiệp: Không; Cha: Vòng Say H; Mẹ: Lê Thị H; Vợ: Nguyễn Thị Tr (không đăng ký kết hôn); Con: có 01 người, sinh năm 2009; Tiền sự: Không; Tiền án: Không;

Nhân thân:

+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 66/HSST ngày 10/9/2004, bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xử phạt 10 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản”.

+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2006/HSST ngày 09/5/2006, bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xử phạt 12 tháng tù, về tội: “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/12/2007.

+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 175/2010/HSST ngày 25/11/2010, bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xử phạt 07 năm 06 tháng tù, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/01/2017.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/12/2020 cho đến nay. (bị cáo có mặt tại phiên tòa)

Bị hại:

1. Chị Đỗ Thị L - sinh năm 1985; Địa chỉ: ấp T, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)

2. Chị Bùi Thị M – sinh năm 1982; Địa chỉ: Tổ 8, khu phố T, phường P,  T phố H, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)

3. Em Sơn Tấn P – sinh năm 21/3/2007; Địa chỉ: Ấp 4, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)

Người đại diện hợp pháp của em Sơn Tấn P: Ông Sơn Tấn D– sinh năm 1975; Địa chỉ: Ấp 4, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai (là cha ruột). (vắng mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Em Phạm Văn T – sinh năm 2007; Địa chỉ: Ấp 2, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt) Người đại diện hợp pháp của em Phạm Văn Tr: Bà Phạm Thị T – sinh năm 1975; Địa chỉ: Ấp 2, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai (là mẹ ruột). (vắng mặt)

2. Em Huỳnh Tấn S – sinh năm 2007; Địa chỉ: Ấp 2, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt) Người đại diện hợp pháp của em Huỳnh Tấn S: Ông Huỳnh Tấn T – sinh năm 1973; Địa chỉ: Ấp 2, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai (là cha ruột). (vắng mặt)

Ngưi làm chứng: Chị Mai Thị Thủy T – sinh năm 1991; Địa chỉ: Tổ 19, khu phố T, phường P,  T H, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vòng Minh T và đối tượng tên thường gọi Q Nhóc (chưa rõ nhân thân lai lịch) cùng ngụ tại huyện T, tỉnh Đồng Nai đã cùng nhau bàn bạc, thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, cướp giật tài sản và cướp tài sản trên địa bàn huyện Trảng Bom,  T phố Biên Hòa và huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, cụ thể như sau:

- Vụ thứ nhất:

Khoảng 12 giờ ngày 30/11/2020, Vòng Minh T cùng đối tượng Q Nhóc (chưa rõ nhân thân lai lịch) rủ nhau đi trộm cắp tài sản. T sử dụng xe mô tô kiểu dáng Honda Wave, màu xanh, không rõ biển số (chưa rõ nguồn gốc) để chở Q Nhóc đi trên các tuyến đường thuộc địa phận huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai tìm cơ hội trộm cắp tài sản. Khi đi qua nhà của mẹ chị Đỗ Thị L, sinh năm 1985, trú ấp 3, xã H, huyện V, tỉnh Đồng Nai (tại ấp L, xã T, huyện B, tỉnh Đồng Nai), T phát hiện cổng nhà mở, có 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S màu trắng – nâu – xám, biển số 60B9-X dựng bên hông nhà, không có người trông coi, có sẵn chìa khóa trên xe nên T và Q Nhóc rủ nhau trộm cắp xe mô tô trên. Để thực hiện ý định, T dừng xe đứng ngoài cảnh giới, còn Q Nhóc lén lút đi bộ đến tiếp cận trộm cắp xe mô tô trên của chị L, rồi điều khiển xe cùng T tẩu thoát. Sau đó, T điều khiển xe của T và Q Nhóc điều khiển xe vừa trộm được của chị L đem về cất giấu tại nhà của T tại ấp L, xã T, huyện B. Do xe còn tốt nên T và Quốc sử dụng xe mô tô biển số 60B9- X trộm cắp được của chị L làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội.

* Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 31/3/2021, của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Trảng Bom, kết luận: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S màu trắng – nâu – xám, biển số 60B9-X, xe đã qua sử dụng có giá trị 10.000.000đ (mười triệu đồng).

- Vụ thứ hai:

Khoảng 14 giờ ngày 13/12/2020, do không có tiền tiêu xài, Vòng Minh T rủ đối tượng Q Nhóc cướp giật tài sản của người đi đường để bán lấy tiền tiêu xài, Q Nhóc đồng ý. T sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S màu trắng – nâu – xám, biển số 60B9-X chở Q Nhóc đi tìm tài sản để cướp giật. Khi đi đến tiệm thuốc tây “Phan Thu Điềm” tại số 2, tổ 19, khu phố Tân Mai, phường Phước Tân,  T phố Biên Hòa, do không có khẩu trang nên T nói Q Nhóc vào tiệm thuốc tây “Phan Thu Điềm” để mua khẩu trang. Sau đó, Quốc vào tiệm thuốc tây mua khẩu trang xong đi ra thì phát hiện chị Bùi Thị M, sinh năm 1982, ngụ tổ 8, khu phố T, phường P đến mua thuốc tây, trên cổ có đeo 01 sợi dây chuyền vàng 18K trọng lượng 02 chỉ. Lúc này, Q Nhóc nháy mắt rủ T cướp giật dây chuyển của chị M, T đồng ý. Để thực hiện ý định, T đứng bên ngoài cảnh giới còn Q Nhóc chạy đến áp sát và giậy sợi dây chuyền vàng trên cổ chị M, rồi nhanh chóng leo lên xe mô tô cùng T tẩu thoát. Sau khi thực hiện hành vi cướp giật, Q Nhóc đem sợi dây chuyền chiếm đoạt được của chị M đi bán được số tiền 3.700.000đ (Ba triệu bảy trăm ngàn đồng) (T không biết địa điểm Q Nhóc bán sợi dây chuyền), số tiền này T và Q Nhóc chia nhau tiêu xài hết.

* Tại bản kết luận định giá tài sản số 55/KL-HĐĐGTS ngày 03/2/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự  T phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai kết luận: 01 (một) sợi dây chuyền vàng 18K trọng lượng 02 chỉ có giá trị 8.153.400 đồng (tám triệu một trăm năm mươi ba ngàn bốn trăm đồng).

- Vụ thứ ba:

Vào khoảng 08 giờ ngày 24/12/2020 Vòng Minh T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S, màu trắng-nâu-xám, biển số 60B9-X đi đến quán cà phê Xi Rô thuộc ấp L, xã T, huyện B thì gặp Q Nhóc, sau đó Q Nhóc rủ Tđi tìm cơ hội trộm cắp tài sản. T đồng ý và chở Q Nhóc đi đến địa bàn huyện Xuân Lộc, vào các đường hẻm khu dân cư tìm cơ hội trộm cắp tài sản, khi đi T cầm theo 01 (một) con dao dài khoảng 46,5cm, cán bằng gỗ dài khoảng 14cm, lưỡi dao bằng sắt bảng rộng dài khoảng 32,5cm để trong cốp xe mô tô, Q Nhóc cầm theo 01 dao Thái lan dài 40cm cất giấu trong người. Đến khoảng 14 giờ 40 phút cùng ngày, khi cả hai đi đến bờ đập hồ Sông Ui, thuộc ấp Gia Ui, xã Xuân Tâm, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai thì nhìn thấy em Sơn Tấn P, sinh ngày 21/3/2007, trú ấp 4, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave Anpha màu xanh – đen – bạc, biển số 60B5-X chở em Phạm Văn T (Dình), sinh ngày 23/12/2007) trú ấp 2, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai và em Huỳnh Tấn S (Bo), sinh ngày 08/7/2007, trú ấp 2, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai ngồi phía sau đang đi dạo trên đường bờ đập Sông Ui. Thấy vậy, Q Nhóc rủ T cướp đoạt xe mô tô của em P, T đồng ý. Để thực hiện ý định, T điều khiển xe chạy cùng chiều từ phía sau vượt song song bên trái xe mô tô của P, Q Nhóc ngồi sau chồm người qua đưa tay nắm cặp sách của em S kéo về phía sau, rồi dùng chân đạp vào hông trái xe mô tô của em P làm các em P, T, S cùng xe mô tô ngã nghiêng bên phải. Sau đó, T dừng xe lại bước xuống xe, mở cốp xe lấy ra con dao dài khoảng 46,5cm, cán bằng gỗ dài khoảng 14cm, lưỡi dao bằng sắt bảng rộng dài khoảng 32,5cm đi đến vị trí ba em P, T, S vừa té đứng dậy và la lớn “tụi mày đứng im”, đồng thời T dùng mặt bản dao đánh vào mặt và đầu của các em P, T, S làm các em P, T, S hoảng sợ đứng im không dám phản kháng. Sau đó, Q Nhóc chiếm đoạt xe mô tô trên của em P điều khiển xe chạy tẩu thoát ra hướng Quốc lộ 1A đi về huyện Bom, T cũng điều khiển xe mô tô biển số 60B9-X, chạy theo phía sau. Sau khi về đến huyện Bom, tỉnh Đồng Nai, T và Q Nhóc bàn bạc thống nhất để lại xe mô tô vừa cướp được của các em P, T và S cho Q Nhóc sử dụng, còn T sử dụng xe mô tô biển số 60B9-X. Đến ngày 31/12/2020, khi T sử dụng xe mô tô biển số 60B9-X, còn Q Nhóc sử dụng xe mô tô biển số 60B5-X đi tìm tài sản trộm cắp ở  T phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai thì bị Công an  T phố Long Khánh cùng Công an huyện Xuân Lộc phát hiện và bắt khẩn cấp đối với T, còn Q Nhóc sử dụng xe mô tô biển số 60B5-X cướp được của các em P, T và S bỏ trốn khỏi địa phương.

* Tại bản kết luận định giá tài sản số 02/KL-HĐĐG ngày 08/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Xuân Lộc kết luận: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave anpha, màu xanh – đen – bạc, biển số 60B5-X, xe đã qua sử dụng có giá trị 11.500.000 đồng (mười một triệu năm trăm ngàn đồng).

* Vật chứng vụ án:

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S màu trắng – nâu – xám, biển số 60B9-X thu giữ của bị can Vòng Minh T. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc đã xử lý vật chứng trả lại xe mô tô trên cho chị Đỗ Thị L.

- 01 (một) con dao dài khoảng 46,5cm, cán bằng gỗ dài khoảng 14cm, lưỡi dao bằng sắt bảng rộng dài khoảng 32,5cm thu giữ của bị can Vòng Minh T.

- 01 (một) sợi dây chuyền vàng 18K trọng lượng 02 chỉ (không thu giữ được).

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Wave Anpha màu xanh – đen – bạc, biển số 60B5-X (không thu giữ được).

- 01 (một) xe mô tô kiểu dáng Honda Wave, màu xanh, chưa rõ biển số là phương tiện mà Vòng Minh T và Q Nhóc sử dụng thực hiện hành vi trộm cắp xe mô tô của chị Đỗ Thị L vào ngày 30/11/2020, chưa xác định được nguồn gốc xe. Sau khi sử dụng thực hiện hành vi phạm tội, Vòng Minh T đưa Q Nhóc bán xe mô tô trên, hiện chưa xác định được người mua (không thu giữ được).

* Trách nhiệm dân sự:

- Bị hại chị Đỗ Thị L đã nhận lại tài sản bị mất xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S màu trắng – nâu – xám, biển số 60B9-X và không có yêu cầu gì về dân sự.

- Bị hại chị Bùi Thị M yêu cầu bồi thường tài sản bị chiếm đoạt là một sợi dây chuyền vàng 18K trọng lượng 02 chỉ theo kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự  T phố Biên Hòa với số tiền 8.153.400 đồng (tám triệu một trăm năm mươi ba ngàn bốn trăm đồng).

- Ông Sơn Tấn D là cha ruột của bị hại em Sơn Tấn P yêu cầu bồi thường tài sản bị chiếm đoạt là xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Anpha, màu xanh – đen – bạc, biển số 60B5-X theo kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Xuân Lộc với số tiền 11.500.000 đồng (mười một triệu năm trăm ngàn đồng).

Tại bản cáo trạng số 113/CT-VKSXL ngày 10 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc đã truy tố bị cáo Vòng Minh T về tội “Cướp tài sản” theo điểm d, e khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự, tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự và tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc tham gia phiên tòa phát biểu giữ nguyên quan điểm truy tố theo bản cáo trạng. Căn cứ khoản điểm d, e khoản 2 Điều 168, khoản 1 Điều 171, khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Vòng Minh T từ 08 năm đến 09 năm tù về tội cướp tài sản, từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội cướp giật tài sản, từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, tổng hợp hình phạt của ba tội là từ 11 đến 13 năm tù . Căn cứ Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 584, 589 Bộ luật Dân sự; đề nghị tuyên: Tịch thu tiêu hủy vật chứng vụ án 01 (một) con dao dài khoảng 46,5cm, cán bằng gỗ dài khoảng 14cm, lưỡi dao bằng sắt bảng rộng dài khoảng 32,5cm; tuyên buộc bị cáo Vòng Minh T có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho chị Bùi Thị M số tiền 8.153.400 đồng, bồi thường thiệt hại cho ông Sơn Tấn D là người đại diện cho bị hại em Sơn Tấn P số tiền 11.500.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Vòng Minh T thừa nhận toàn bộ hành vi của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án.

Vào khoảng 12 giờ ngày 30/11/2020, bị cáo Vòng Minh T đã có hành vi trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S màu trắng – nâu – xám, biển số 60B9-X của chị Đỗ Thị L. Trị giá tài sản chị Liên bị chiếm đoạt là 10.000.000 đồng.

Vào khoảng 14 giờ ngày 13/12/2020, bị cáo Vòng Minh T điều khiển xe mô tô biển số 60B9.X đang nổ máy đứng bên ngoài cảnh giới, còn đối tượng Q Nhóc (chưa rõ nhân thân lai lịch) chạy bộ giật sợi dây chuyền vàng 18K trọng lượng 02 chỉ trên cổ chị Bùi Thị M và nhanh chóng leo lên xe cùng T tẩu thoát. Trị giá tài sản chị Mến bị chiếm đoạt là 8.153.400 đồng.

Vào khoảng 14 giờ 40 phút ngày 24/2/2020, bị cáo Vòng Minh T và đối tượng Q Nhóc (chưa rõ nhân thân lai lịch) đã có hành vi cùng bàn bạc, dùng dao đe dọa, đánh vào mặt và đầu của các em Sơn Tấn P, Phạm Văn T, Huỳnh Tấn S làm các em P, T, S hoảng sợ đứng im không dám phản kháng, chiếm đoạt xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Anpha, màu xanh – đen – bạc, biển số 60B5-X của em Sơn Tấn P. Trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 11.500.000 đồng.

Như vậy, hành vi của bị cáo vòng Minh T đã phạm vào các tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự, “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự và “Cướp tài sản” với 2 tình tiết định khung “sử dụng phương tiện nguy hiểm”, “phạm tội đối với người dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm d, e khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe và quyền sở hữu của người khác, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, gây hoang mang, lo lắng trong người dân tại địa phương. Vì vậy, cần áp dụng một mức hình phạt nghiêm, tương xứng với hành vi của bị cáo nhằm giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo  T khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự được xem xét để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. [5] Về trách nhiê m dân sự: Buộc bị cáo bồi thường cho chị Bùi Thị M số tiền 8.153.400 đồng, bồi thường cho ông Sơn Tấn D số tiền 11.500.000 đồng là trị giá tài sản mà bị cáo chiếm đoạt.

[6] Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) con dao dài khoảng 46,5cm, cán bằng gỗ dài khoảng 14cm, lưỡi dao bằng sắt bảng rộng dài khoảng 32,5cm mà bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng và nộp án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền bị cáo phải bồi thường cho các bị hại là 982.000 đồng (19.653.400 đồng x 5%).

[8] Hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm d, e khoản 2 Điều 168; khoản 1 Điều 171; khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Vòng Minh T phạm các tội “Cướp tài sản”, Cướp giật tài sản” và “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Vòng Minh T 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù về tội ‘Cướp tài sản” theo điểm d, e khoản 2 Điều 168 của Bộ luật hình sự; xử phạt 02 ( hai) năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự; xử phạt 01 ( một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Tổng hợp hình phạt của ba tội, buộc bị cáo Vòng Minh T phải chấp hành hình phạt chung là 11 (mười một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31 tháng 12 năm 2020.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 357, Điều 468, Điều 584, Điều 589 của Bộ luật dân sự . Buộc bị cáo Vòng Minh T phải bồi thường cho chị Bùi Thị M số tiền 8.153.400 đồng (tám triệu một trăm năm mươi ba ngàn bốn trăm đồng).

Buộc bị cáo Vòng Minh T phải bồi thường cho ông Sơn Tấn D số tiền 11.500.000 đồng (mười một triệu năm trăm ngàn đồng).

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của chị Bùi Thị M, ông Sơn Tấn D thì bị cáo Vòng Minh T phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chậm thanh toán.

3. Xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 46 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 con dao dài khoảng 46,5 cm, cán bằng gỗ dài khoảng 14 cm, lưỡi dao bằng sắt bảng rộng dài khoảng 32,5 cm. (Biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/8/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc theo Quyết định chuyển vật chứng số 73/QĐ-VKSXL ngày 10/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc.)

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng á n phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Vòng Minh T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 982.000 đồng (chín trăm tám mươi hai ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

59
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 146/2021/HS-ST

Số hiệu:146/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về