Bản án về tội trộm cắp tài sản số 138/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 138/2022/HS-ST NGÀY 21/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 4 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 147/2022/HSST, ngày 17 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 157/2022/QĐXXST-HS, ngày 07 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê SH - sinh năm 1984. Nơi cư trú: Phố TS, phường AH, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hoá. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 4/12. Con ông Lê Sỹ Hải và bà Hoàng Thị Minh Đức. Vợ, con: Chưa có. Tiền sự: Không.

Tiền án (có 04 tiền án): Ngày 26/9/2005, bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 39 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ngày 24/10/2007, bị Tòa án nhân dân huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 39 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Trốn khỏi nơi giam giữ”. Ngày 15/10/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 22/9/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 05 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/4/2021 (chưa được xóa án tích).

Nhân thân: Ngày 05/4/2002, bị Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).

* Bị hại: Chị Phan TH – sinh năm 1985. Nơi cư trú: Số nhà 03/65 Yên Trường, phường QT, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Ngô TT – sinh năm 1979. Nơi cư trú: Thôn Giát, xã ĐT, huyện BT, tỉnh Thanh Hóa (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 00 phút ngày 03/12/2021, Lê SH điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Anpha BKS 36G5 - 241.21, chở mẹ đẻ là bà Hoàng Thị Minh Đức đến chợ Nấp thuộc phố Quang, phường AH, thành phố Thanh Hóa để mua đồ lễ thắp hương. Khi vào trong chợ, bà Đức mua hoa sát cạnh quầy bán thịt của chị Phan TH. Lúc này, Hoài quan sát, phát hiện trên quầy bán thịt có một chiếc hộp sắt đựng tiền nhưng không đậy nắp. Lợi dụng lúc chị Hà đang bán hàng cho khách, không chú ý, Hoài với tay sang lấy đi tập tiền loại mệnh giá 500.000 đồng, cất giấu vào trong ống tay áo bên trái và nhanh chóng di chuyển sang quầy bán hoa, Hoài kiểm đếm được 07 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng. Tổng số tiền là 3.500.000đ (Ba triệu, năm trăm nghìn đồng).

Đến 09giờ cùng ngày, chị Hà phát hiện bị mất tiền nên đã đến Công an phường AH trình báo về việc mất tài sản.

Khoảng 15 giờ cùng ngày, Công an phường AH triệu tập Lê SH lên làm việc. Tại đây, Hoài đã thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản và giao nộp số tiền 3.500.000đ (Ba triệu, năm trăm nghìn đồng).

Ngày 13/12/2021, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chi nhánh Thanh Hóa đã giám định và kết luận: Số tiền 3.500.000đ (Ba triệu, năm trăm nghìn đồng) trong vụ án “Trộm cắp tài sản” xảy ra vào ngày 03/12/2021 tại chợ Nấp, phường AH, thành phố Thanh Hóa là tiền thật do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành.

Ngày 30/12/2021, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thanh Hóa đã trả lại số tiền 3.500.000 đồng cho chị Phan TH. Sau khi nhận lại tài sản chị Hà không có yêu cầu gì.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Anpha BKS 36G5 – 241.21 là xe của chị Ngô TT cho Hoài mượn, chị Thảo không biết Hoài sử dụng để phạm tội, nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thanh Hóa đã trả lại chiếc xe cho chủ sở hữu là chị Ngô TT.

Tại bản Cáo trạng số: 102/CT-VKS ngày 16/3/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa đã truy tố bị cáo Lê SH về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa tại phiên tòa luận tội đối với bị cáo vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả đối với hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê SH phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê SH từ 36 đến 42 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Phan TH đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm, nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Về vật chứng của vụ án: Đã được xử lý tại Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thanh Hóa, nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo Lê SH đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo đã thống nhất với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, loại tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt và các chứng cứ khác phản ánh tại hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Với bản chất lười lao động nhưng lại muốn hưởng thụ. Khoảng 07 giờ 00 phút ngày 03/12/2021, tại khu chợ Nấp thuộc phố Quang, phường AH, thành phố Thanh Hóa, Lê SH đã lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản, lén lút trộm cắp của chị Phan TH số tiền 3.500.000đ (Ba triệu, năm trăm nghìn đồng). Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa truy tố bị cáo Lê SH về tội "Trộm cắp tài sản" theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự với tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử thấy rằng: Đây là vụ án có tính chất nghiêm trọng. Bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của chủ sở hữu, khi có điều kiện là bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, bị cáo thực hiện hành vi một cách liều lĩnh, táo bạo, bất chấp giữa ban ngày, ở nơi đông người. Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an ninh chung, gây tâm lý hoang mang, lo lắng, bức xúc cho quần chúng nhân dân trong việc quản lý tài sản. Vì vậy, cần có đường lối xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo, nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Lê SH là người đã có 04 tiền án. Ngày 26/9/2005, bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 39 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ngày 24/10/2007, bị Tòa án nhân dân huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 39 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Trốn khỏi nơi giam giữ”. Ngày 15/10/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 22/9/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 05 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/4/2021 (chưa được xóa án tích).

Nhân thân: Ngày 05/4/2002, bị Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho mình để tu dưỡng, rèn luyện trở thành công dân tốt, mà nay tiếp tục phạm tội, cho nên cần được xem xét.

Bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, bị hại có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Cho nên, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Từ những nhận xét đánh giá trên, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, biết chấp hành pháp luật.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại chị Phan TH đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về hình phạt bổ sung: Khi quyết định hình phạt, xét thấy cần áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự, để tăng thêm tính răn đe đối với bị cáo.

[8] Về vật chứng của vụ án: Đã được giải quyết tại Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thanh Hóa, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2, khoản 5 Điều 173; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Khoản 2 Điều 136; Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Tuyên bố: Bị cáo Lê SH phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

* Xử phạt: Bị cáo Lê SH 42 (bốn hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

* Về hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Lê SH 10.000.000đ (Mười triệu đồng) nộp ngân sách Nhà nước.

* Về án phí: Buộc bị cáo Lê SH phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, các bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 138/2022/HS-ST

Số hiệu:138/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về