Bản án về tội trộm cắp tài sản số 138/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 138/2021/HS-ST NGÀY 29/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh V, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:140 /2021/HSST ngày 29 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 147/2021/HSST-QĐ ngày 15 tháng 12 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyn Đức T, sinh ngày 21/ 6/ 1991 tại H; nơi cư trú: Thôn K, xã T, huyện M, TP. H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Đỗ Thị Y; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án; 01. Tại Bản án số 31/2014/ HSST ngày 19/3/2014 của TAND thành phố Vĩnh Yên xử phạt T 08 năm tù về tội “Cướp tài sản” và 01 năm tù về tội “Làm nhục người khác”. Tổng hợp hình phạt cho cả hai tội buộc T phải chấp hành hình phạt 09 năm tù. Chấp hành xong án phí hình sự, án phí dân sự và khoản bồi thường 3.635.000đ ngày 06/8/2014. Ngày 29/4/2020, chấp hành xong hình phạt tù; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/9/2021 cho đến nay (có mặt).

Bị hại: Anh Dương Văn H, sinh năm 1993; trú tại: Thôn Đ, xã H, huyện T, tỉnh V (vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1994; trú tại: TDP B, thị trấn B, huyện B, tỉnh V (vắng mặt).

- Anh Hoàng Đình L, sinh năm 19987; trú tại: TDP T, thị trấn G, huyện B, tỉnh V (vắng mặt).

- Chị Phan Thị T, sinh năm 1987; trú tại: TDP T, thị trấn G, huyện B, tỉnh V (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 11/9/2021, Nguyễn Đức T đang thuê nhà ở trọ tại nhà chị Phan Thị T ở TDP Bảo Sơn, thị trấn Bá Hiến, huyện B đi bộ từ nhà trọ đến quán Internet K do anh Nguyễn Văn H ở thị trấn B, huyện B, tỉnh V làm chủ để chơi game. Đến nơi, T được anh H sắp xếp cho ngồi chơi tại bàn số 3, phòng số 2 dãy bên phải nhìn từ hướng cửa đi vào. Lúc này, trong phòng có anh Dương Văn H, đang ngồi chơi game tại bàn số 2 dãy bên trái. Đến khoảng 13h00 phút cùng ngày, T đứng dậy đi vệ sinh thì nhìn thấy chiếc điện thoại Iphone 8 Plus, màu vàng trắng trên sàn nhà, dưới vị trí anh H ngồi. Sau khi đi vệ sinh xong, T quay lại bàn thì vẫn thấy chiếc điện thoại Iphone 8 plus nằm ở vị trí đó. T nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại để đem đi bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Quan sát xung quanh thấy không có ai để ý, anh H đang nằm ngủ ở trên ghế. T cúi người xuống dùng tay phải cầm lấy điện thoại giấu vào túi quần bên phải phía trước rồi đi ra thanh toán tiền chơi game đi về. Khi về đến phòng, T hỏi mượn xe mô tô BKS 88H: xxxx của chị Đào Thị T (là bạn gái đang ở cùng phòng trọ với T) nói đi có việc. Chị T đồng ý, T điều khiển xe đi đến cửa hàng mua bán điện thoại H ở thôn Ngũ Hồ, xã Thiện Kế, huyện B, tỉnh V do anh Nguyễn Hoàng L ở thị trấn Gia Khánh, huyện B, tỉnh V làm chủ và bán chiếc điện thoại trộm cắp được cho anh L được 2.000.000 đồng. Sau đó T điều khiển xe về phòng trọ của mình trả 1.200.000 đồng tiền thuê nhà cho chị Phan Thị T, số tiền còn lại T chi tiêu cá nhân hết.

Sau khi ngủ dậy, anh Dương Văn H không thấy điện thoại của mình đâu, đã cùng chủ quán Internet King game xem lại camera phát hiện có người chiếm đoạt chiếc điện thoại của mình. Đến ngày 14/9/2021, anh H làm đơn trình báo Cơ quan điều tra Công an huyện B về việc anh bị mất điện thoại.

Cùng ngày, Cơ quan điều tra trích xuất 01 tập tin từ camera an ninh của cửa hàng Internet King game do anh Nguyễn Văn H cung cấp và lưu giữ vào trong 01 USB nhãn hiệu Kingston.

Ngày 20/9/2021, anh Hoàng Đình L đã tự nguyện giao nộp cho CQĐT 01 ĐTDĐ Iphone 8 plus màu vàng trắng; chị Phan Thị Tới đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra số tiền 1.200.000đồng để phục vụ công tác điều tra.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 120/KL-HĐĐG ngày 28/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện B, kết luận: 01 điện thoại di động Iphone 8 Plus, màu vàng trắng đã cũ trị giá là 5.066.000đ.

Tại bản kết luận giám định số 2566 ngày 08/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh V kết luận: “ Trích xuất được 15 ảnh của một số người xuất hiện trên tập tin Video gửi giám định, chi tiết được thể hiện trong bản ảnh giám định.

Sao in được tập tin video gửi giám định sang đĩa DVD. Hình ảnh thể hiện T và H ngồi chơi tại quán sau đó T cúi xuống trộm cắp tài sản.

Đối với 01 điện thoại di động Iphone 8 Plus màu vàng trắng, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Dương Văn H. Ngày 05/10/2021, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc điện thoại trên cho anh H, sau khi nhận lại tài sản anh H không có yêu cầu đề nghị gì về dân sự và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt đối với T.

Đối với số tiền 1.200.000đ xác định là tiền của anh Lâm mua điện thoại của T nên cần trả lại cho anh L.

Đối với xe mô tô BKS88H7- xxxx xác định là tài sản hợp pháp của chị Đào Thị T. Ngày 11/9/2021, T hỏi mượn xe của chị Thúy nói đi có việc, chị Th không biết T sử dụng xe để đi bán điện thoại vừa trộm cắp được. Mặt khác chị T cũng không được hưởng lợi gì từ số tiền T bán điện thoại. Do vậy, Cơ quan điều tra không thu giữ xe và không xử lý đối với chị T là đúng quy định pháp luật.

Đối với 01 DVD ghi lại hình ảnh T có mặt và thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của anh H nên cần lưu giữ trong hồ sơ vụ án làm tài liệu chứng cứ.

Tại Cáo trạng số 146/CT-VKSBX ngày 26 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với các bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Đức T từ 10 tháng đến 12 tháng tù.

Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đức T thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như bản cáo trạng, không bào chữa và tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đức T khai nhận tội phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với vật chứng thu được và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 11/9/2021, tại quán Internet K của anh Nguyễn Văn H ở thị trấn Bá Hiến, huyện B, tỉnh V lợi dụng sơ hở, Nguyễn Đức T đã lén lút trộm cắp 01 điện thoại di động Iphone 8 plus màu vàng trắng của anh Dương Văn H đem bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Trị giá tài sản T chiếm đoạt là 5.066.000đồng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Đức T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 173 của Bộ Luật Hình sự, cụ thể điều luật quy định:

“ Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng…, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, làm quần chúng nhân dân hoang mang, lo sợ. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Xét về nhân thân, tính chất mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân xấu, bản thân đã có thời gian dài chấp hành trong trại giam nhưng không lấy đó làm bài học mà lợi dụng sơ hở của người khác để trộm cắp tài sản nên lần phạm tội này là tái phạm. Hiện tại trên địa bàn huyện B, tỉnh V các tội phạm xâm phạm đến quyền sở hữu có chiều hướng gia tăng, đây là nguyên nhân làm mất ổn định tình hình an ninh chính trị tại địa phương. Do đó, cân chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” để giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú và người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt. Vì vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định bị cáo không có công việc ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn nên cần miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Phan Thị T là người được T trả số tiền thuê nhà là 1.200.000đ, chị T không biết đó là tiền do T trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với chị T là phù hợp.

Đối với anh Hoàng Đình L là người mua điện thoại Iphone 8 plus của T. Khi bán điện thoại cho anh L, T không nói, anh L không biết chiếc điện thoại đó do T trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với anh L là phù hợp.

Đối với anh Nguyễn Văn H là chủ quán Internet K. Quá trình điều tra xác minh xác định: Ngày 02/12/2019, Phòng tài chính - Kế hoạch UBND huyện B đã cấp giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh, ngành nghề: Dịch vụ truy cập Internet và trò chơi trên mạng cho anh H. Tuy nhiên, ngày 11/9/2021 đang trong thời gian giãn cách xã hội để phòng chống dịch bệnh covit theo Chỉ thị của tỉnh V nhưng anh H lại cho T và H vào ngồi chơi điện tử. Hành vi của H đã vi phạm quy định tại khoản 2 điều 14 Nghị định 117/NĐ-CP ngày 28/9/2020 của chính phủ về: Không chấp hành các biện pháp phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Ngày 14/10/2021, CQĐT đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Buộc Nguyễn Đức T phải bồi thường cho anh Hoàng Đình L số tiền 800.000 đồng là tiền anh L mua điện thoại của T.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với số tiền 1.200.000đ là tiền do T bán điện thoại cho anh L cần trả lại cho anh L.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Đức T12 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 20/9/2021.

Căn cứ Điều 47, Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 357, 468, 584, 585, 589 của Bộ luật Dân sự.

Buộc bị cáo Nguyễn Đức T phải bồi thường cho anh Hoàng Đình L số tiền 800.000 đồng.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, số tiền nêu trên người phải thi hành án không trả được, thì các bên có quyền thỏa thuận lãi suất chậm trả theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật Dân sự. Nếu các bên không thỏa thuận được thì người phải thi hành án phải chịu lãi suất chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

Trả lại cho anh Hoàng Đình L số tiền 1.200.000đ là tiền anh L mua điện thoại của T.

(Đặc điểm tang vật như Biên bản bàn giao vật chứng ngày 29/11/2021).

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án; buộc Nguyễn Đức T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng tiền án phí dân sự trong án hình sự.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội trộm cắp tài sản số 138/2021/HS-ST

Số hiệu:138/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về