Bản án về tội trộm cắp tài sản số 136/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 136/2022/HS-ST NGÀY 13/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 101/2022/TLST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 109/2022/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hồ Văn L, sinh ngày 20/12/1995, tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: Thôn T, xã H, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Văn B, sinh năm 1971 và bà Võ Thị H, sinh năm 1968; gia đình có 05 anh, em ruột, bị cáo là con thứ hai; vợ con: Chưa có.

Quá trình nhân thân: Lúc nhỏ ở với gia đình, đi học đến lớp 04/12 thì nghỉ học.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 14/02/2022 cho đến nay, bị cáo có mặt.

* Bị hại: Công ty cổ phần T; địa chỉ liên hệ: Số 02 đường N, phường V, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế;

Người đại diện theo pháp luật: Ông Đoàn Văn Hiểu E, chức vụ: Tổng Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn C, chức vụ: Giám đốc Chi nhánh Công ty cổ phần T- Miền Trung; địa chỉ: Số 197-199 đường Đ, phường Đ, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Người được ủy quyền lại: Bà Trương Thị Thanh V, sinh năm 1990; chức vụ: Quản lý Siêu Thị Chi nhánh Công ty cổ phần T; địa chỉ liên hệ: Số 02 đường N, phường V, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Hồ Văn P, sinh năm 1997; địa chỉ: Thôn T, xã H, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt.

2. Anh Phan Cảnh Quốc Đ, sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn L, xã B, thị xã T, tỉnh Thừa Thiên Huế, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 18/11/2021, Hồ Văn L điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 75D1-XXX.XX mượn của anh Hồ Văn P (Là em ruột của L) đi đến cửa hàng T của Công ty cổ phần T tại địa chỉ số 02 N, phường V, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế với mục đích chiếm đoạt tài sản. L dừng xe mô tô bên ngoài cửa hàng rồi đi bộ vào bên trong cửa hàng và đi đến một tủ kính có nhiều điện thoại di động loại màn hình cảm ứng. Lợi dụng sơ hở của các nhân viên bán hàng, L dùng tay lấy trộm 01 điện thoại hiệu VIVO màu đen rồi cho vào túi quần. Sau khi lấy được điện thoại, L rời khỏi cửa hàng. L đưa điện thoại vừa chiếm đoạt được đến cửa hàng sửa chữa điện thoại “Đ”, tại địa chỉ: Thôn L, xã B, thị xã T, tỉnh Thừa Thiên Huế do anh Phan Cảnh Quốc Đ là chủ cửa hàng để cài đặt, sau đó L bán cho anh Đ với số tiền 2.300.000 đồng (Trừ tiền công kích hoạt máy 300.000 đồng), anh Đ đưa L 2.000.000 đồng. Số tiền 2.000.000 đồng có được L tiêu xài cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 320/KL-HĐĐGTS ngày 30/12/2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Huế kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Vivo V21, màu xanh đen, số Imei 1: 868163057681139, số Imei 2:

868163057681121 (Đã qua sử dụng). Tại thời điểm ngày 18/11/2021 có giá trị 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng).

* Vật chứng tạm giữ:

- 03 Tấm ảnh màu, khổ giấy 15cm x 8,5cm trong ảnh có hiển thị ngày tháng năm hiện hành và hình ảnh đối tượng Hồ Văn L.

- 01 Điện thoại di động loại màn hình cảm ứng hiệu VIVO V21, màu xanh đen, không kiểm tra chất lượng bên trong, Số Imei 1:868163057681139, Số Imei2: 868163057681121, máy đã qua sử dụng.

- 01 Giấy nhận tiền do Phan Cảnh Quốc Đ ký, người nhận tiền ngày 06/12/2021, Hồ Văn L ký người giao, nội dung: “L bồi thường cho Đ số tiền 2.000.000 đồng mà Đ đã mua của L điện thoại di động Vivo”.

- 01 Xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển kiểm soát 75D1-XXX.XX, màu sơn: Xanh – Trắng, số máy: 55P1339798, số khung: 5P10DY339792 xe đã qua sử dụng;

- 01 Cái khẩu trang màu đen;

- 01 Cái áo khoác màu đen.

* Về xử lý vật chứng:

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Huế đã trả lại 01 điện thoại di động loại màn hình cảm ứng hiệu VIVO V21, màu xanh đen cho chị Trương Thị Thanh V là đại diện chủ sở hữu. Trả lại 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển kiểm soát 75D1-XXX.XX cho anh Hồ Văn P là chủ sở hữu. Trả lại 01 cái khẩu trang màu đen và 01 cái áo khoác màu đen cho Hồ Văn L.

* Về trách nhiệm dân sự:

Chị Trương Thị Thanh V (Đại diện bị hại) không có yêu cầu gì về dân sự. Hồ Văn L đã bồi thường cho anh Phan Cảnh Quốc Đ số tiền 2.000.000 đồng mà anh Đ đã đưa cho L khi mua điện thoại. Anh Đ không có yêu cầu gì thêm về dân sự.

Tại bản cáo trạng số 118/CT-VKS-HS ngày 27/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế đã truy tố bị cáo Hồ Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế vẫn giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hồ Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt Hồ Văn L từ 06 (Sáu) đến 09 (Chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 (Một) năm đến 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Hồ Văn L cho UBND xã T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

* Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Huế đã trả lại 01 điện thoại di động loại màn hình cảm ứng hiệu VIVO V21, màu xanh đen cho chị Trương Thị Thanh V là đại diện chủ sở hữu. Trả lại 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển kiểm soát 75D1-XXX.XX cho anh Hồ Văn P là chủ sở hữu. Trả lại 01 cái khẩu trang màu đen và 01 cái áo khoác màu đen cho Hồ Văn L. Nay không có ai yêu cầu gì, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

* Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Hồ Văn L đã bồi thường cho anh Phan Cảnh Quốc Đ số tiền 2.000.000 đồng. Nay anh Đ không có yêu cầu gì, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

* Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Hồ Văn L phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Hồ Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và các chứng cứ khác được thu thập tại hồ sơ vụ án, quá trình xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên tòa đã làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 18/11/2021, tại cửa hàng T tại địa chỉ số 02 N, phường V, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, lợi dụng sơ hở trong việc quản lý, trông coi tài sản của chủ sở hữu Hồ Văn L đã lén lút, chiếm đoạt của Công ty cổ phần T 01 (Một) điện thoại di động loại màn hình cảm ứng hiệu VIVO V21, màu xanh đen có giá trị 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng). Với hành vi nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế đã truy tố Hồ Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo thấy rằng: Bị cáo Hồ Văn L là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, mà còn ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an tại địa phương. Bởi vậy, đối với Hồ Văn L cần xử lý thích đáng nhằm giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét cho bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, đã bồi thường thiệt hại, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không phạm vào tình tiết tăng nặng; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng; xét không cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội mà cần giao cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục cũng đủ tác dụng giáo dục răn đe và phòng ngừa.

[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, bị hại không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[4] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Huế đã trả lại 01 điện thoại di động loại màn hình cảm ứng hiệu VIVO V21, màu xanh đen cho chị Trương Thị Thanh V là người được ủy quyền lại của bị hại; trả lại 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển kiểm soát 75D1-XXX.XX cho anh Hồ Văn P là chủ sở hữu; trả lại 01 cái khẩu trang màu đen và 01 cái áo khoác màu đen cho bị cáo Hồ Văn L. Nay không có ai yêu cầu gì, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Hồ Văn L đã bồi thường cho anh Phan Cảnh Quốc Đ số tiền 2.000.000 đồng. Nay anh Đ không có yêu cầu gì, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Hồ Văn L phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hồ Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt Hồ Văn L 06 (Sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (Một) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Hồ Văn L cho UBND xã T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Hồ Văn L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 136/2022/HS-ST

Số hiệu:136/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về