Bản án về tội trộm cắp tài sản số 130/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 130/2022/HS-ST NGÀY 27/12/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27/12/2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 134/2022/TLST-HS ngày 28/11/2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 135/QĐXXST-HS ngày 09/12/2022 đối với bị cáo:

NGUYN VĂN H sinh năm: 1990, tại Đ; Nơi cư trú: Khu phố P, phường X, thành phố L, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn:

05/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn C, sinh năm: 1965; Con bà: Lê Thị Hoàng N, sinh năm:

1967; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự : không; Nhân thân:

- Ngày 25/7/2011, bị Ủy ban nhân dân thị xã L (nay là thành phố L) áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh 18 tháng. Ngày 22/5/2013, chấp hành xong.

- Ngày 12/11/2014, bị Công an huyện T, tỉnh Đ xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với số tiền 1.500.000đ.

- Ngày 02/11/2017, bị Tòa án nhân dân thị xã L (nay là thành phố L) áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng. Ngày 07/3/2019, được miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam từ ngày 30/08/2022 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố L. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Bùi M, sinh năm: 1962; nơi cư trú: số 39, đường số 27, khu phố S, phường S, thành phố L, tỉnh Đ. (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Hồng H, sinh năm 1972; nơi cư trú: khu phố P, phường X, thành phố L, tỉnh Đ. (có mặt)

- Người làm chứng: Nguyễn Thị T, sinh năm 1961 (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn H là đối tượng không có nghề nghiệp lại nghiện ma túy. Khoảng 12 giờ 30 ngày 18/6/2022, H đi câu cá tại đập nước S về, khi đi ngang qua nhà ông B, sinh năm 1962, ngụ khu phố S, phường S, thành phố L, nhìn thấy trong sân nhà ông M có để 1 chiếc xe Yamaha Sirius màu trắng đen, biển số 60B2- xxxxx, trên xe có sẵn chìa khóa và thấy cổng không đóng, không có người trông coi nên nảy sinh ý định lấy trộm để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Sau đó H lén lút đi vào sân, leo lên xe và nổ máy chạy ra đường tẩu thoát. Lúc này, bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1961, ngụ khu phố N, phường S, thành phố L đang buôn bán trái cây gần đó thấy sự việc, tri hô nhưng không kịp. Sau khi lấy được xe, H chạy về khu vực lô cao su tại khu phố T, phường X, thành phố L để giấu xe vừa trộm được trong bụi cây rồi đi bộ về nhà. Đến khoảng 9 giờ ngày 19/6/2022, H quay lại nơi giấu xe, lấy xe chạy về nhà Lê Hồng H (cậu ruột H), sinh năm 1972, ngụ khu phố P, phường X, thành phố L để dán lại đề can vè trước và tháo yếm xe để thay đổi đặc điểm bên ngoài thì bị Công an phường S phát hiện, thu giữ tang vật.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 36/HĐĐGTTTHS ngày 06/7/2022 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố L kết luận: 01 xe mô tô gắn máy hiệu Yamaha Sirius, số khung FC30EY060137; số máy 1FC3060156, biển số 60B2-xxxxx, đã qua sử dụng (thời điểm ngày 18/6/2022), có giá trị 9.333.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số: 113/CT-VKS-HS ngày 16/11/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 - Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

* Về hình phạt: đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 08 đến 14 tháng tù.

* Về vật chứng:

+ 01 xe mô tô gắn máy hiệu Yamaha Sirius, biển số 60B2-xxxxx Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Bùi M, ông M không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

+ 01 túi đựng cần câu cá màu đen; 01 áo sơ mi tay dài, sọc ngang; 01 áo thun màu xanh đậm; 01 quần short Jean; 01 mũ lưỡi trai màu xám; 01 mũ bảo hiểm màu đen. Đây là bộ quần áo mà H mặc khi thực hiện hành vi phạm tội. Đề nghị tịch thu tiêu hủy.

* Về dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì đối với Nguyễn Văn H nên không xem xét giải quyết.

* Lời nói sau cùng: Bị cáo xin lỗi người bị hại, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội do mình thực hiện như nội dung bản cáo trạng đã nêu, lời khai nhận tội này phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Thể hiện:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 18/6/2022, tại nhà ông Bùi M thuộc khu phố S, phường S, thành phố L, lợi dụng lúc ông M lơ là trong việc trông coi tài sản, Nguyễn Văn H đã có hành vi lén lút lấy trộm 01 xe mô tô Yamaha Sirius, màu trắng đen, biển số 60B2-xxxxx có giá trị 9.333.000 đồng.

Như vậy, đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Văn H đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 như cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu nhưng không chịu tu dưỡng, tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt tù nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên xét bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo nên được xem xét giảm nhẹ theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về vật chứng:

+ Đối với 01 xe mô tô gắn máy hiệu Yamaha Sirius, biển số 60B2-xxxxx, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Bùi M, ông M không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

+ Đối với 01 túi đựng cần câu cá màu đen; 01 áo sơ mi tay dài, sọc ngang;

01 áo thun màu xanh đậm; 01 quần short Jean; 01 mũ lưỡi trai màu xám; 01 mũ bảo hiểm màu đen không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong nên không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Xét quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố : bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội: “Trộm cắp tài sản”

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

* Xử phạ t ngày 30/08/2022.

Bị cáo Nguyễn Văn H 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ

* Về vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tịch thu tiêu hủy 01 túi đựng cần câu cá màu đen; 01 áo sơ mi tay dài, sọc ngang; 01 áo thun màu xanh đậm; 01 quần short Jean; 01 mũ lưỡi trai màu xám; 01 mũ bảo hiểm màu đen không còn giá trị sử dụng.

(Số vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/11/2022)

* Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 130/2022/HS-ST

Số hiệu:130/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Khánh - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về