Bản án về tội trộm cắp tài sản số 114/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 114/2020/HS-PT NGÀY 25/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 131/2020/TLPT-HS ngày 21-02-2020 đối với bị cáo Nguyễn Ngọc G và đồng phạm về tội “Trộm cắp tài sản”. Do có kháng cáo của các bị cáo và bị hại, đối với bản án hình sự sơ thẩm số 05/2020/HSST ngày 07 - 01 - 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Ngọc G (G Hương) - Sinh năm 1994, tại Đắk Lắk; Nơi cư trú: tỉnh Đắk Lắk; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông Nguyễn Ngọc H; Con bà: Nguyễn Thị P, hiện đang sinh sống tại thôn 1, xã T, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Năm 2013 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm, xử phạt Nguyễn Ngọc G 01 năm 03 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Ngày 13 tháng 01 năm 2014 chấp hành xong hình phạt tù và đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/10/2018 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Ngọc G theo yêu cầu của Tòa án: Luật sư Trần Viết T – Văn phòng luật sư M thuộc đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

2. Họ và tên: Mai Mạnh V (Tèo) - Sinh năm 1994, tại tỉnh Đắk Lắk;

Nơi cư trú: huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông Mai Văn L và bà Nguyễn Thị L, hiện đang sinh sống tại huyện K, tỉnh Đắk Lắk; bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/10/2018 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Mai Mạnh V theo yêu cầu của Tòa án: Luật sư Trần Thị Bích T – Văn phòng luật sư M thuộc đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk, có mặt

3. Họ và tên: Hoàng Trung Đ (B) - Sinh năm 1995, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Con ông H Thanh Q và bà Lê Thị Q, hiện đang sinh sống tại huyện K, tỉnh Đắk Lắk; bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/10/2018 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Trung Đ theo yêu cầu của Tòa án: Luật sư Nguyễn Xuân P – Văn phòng luật sư L thuộc đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk, có mặt Lắk;

4. Họ và tên: Phạm Ngọc N (N Phương) - Sinh năm 1995, tại tỉnh Đắk Nơi cư trú: Thôn Q, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12 ; Con ông Phạm Tiến P và bà Nguyễn Thị L, hiện đang sinh sống tại thôn Q, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/11/2018 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Phạm Ngọc N theo yêu cầu của Tòa án: Luật sư Nguyễn Xuân P – Văn phòng luật sư La M thuộc đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

Trong vụ án này có bị cáo: Nguyễn Khắc Q (V Trình) – sinh năm: 1994, tại tỉnh Đắk Lắk; Bị Toà án sơ thẩm xử 09 (chín) năm tù nhưng không kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

* Người bị hại có kháng cáo:

1. Ông Văn Đức L, có mặt;

Trú tại: tỉnh Đắk Lắk;

2. Ông Lê Văn N, có mặt;

Trú tại: tỉnh Đắk Lắk;

3. Bà Vũ Thị N, có mặt;

Trú tại: huyện K, tỉnh Đắk Lắk;

4. Ông Ưng C, vắng mặt nhưng ủy quyền cho chị Ưng Thị M (Con gái của ông C), cùng Trú tại: huyện K, tỉnh Đắk Lắk; có mặt;

5. Ông Bùi Ngọc Đ, có mặt;

Trú tại: tỉnh Đắk Lắk;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Các bị cáo Nguyễn Ngọc G, Hoàng Trung Đ, Mai Mạnh V, Phạm Ngọc N và Nguyễn Khắc Q cùng cư trú tại huyện K, tỉnh Đắk Lắk, do lười lao động, không có nghề nghiệp ổn định và muốn có tiền tiêu xài, nên đã nảy sinh ý định đi trộm cắp tài sản. Để thực hiện ý định trên, G đã lên mạng Internet nghiên cứu và đặt mua một chiếc kìm thủy lực để làm công cụ cắt hàng rào bằng thép lưới B40, ổ khóa cổng, cửa để đột nhập vào nhà người dân trộm cắp tài sản. Để có phương tiện đi lại, các bị cáo đã đi trộm cắp xe môtô và mua lại xe môtô không giấy tờ, đồng thời thuê xe ô tô để chở tài sản trộm cắp được nhằm trốn tránh sự phát hiện của Cơ quan điều tra.

Sau khi chuẩn bị công cụ thì các bị cáo tìm kiếm địa điểm và bàn bạc, phân công nhiệm vụ cho từng người khi thực hiện hành vi phạm tội. Với phương thức, thủ đoạn trên, trong khoảng thời gian từ tháng 01 năm 2018 đến tháng 10 năm 2018 các bị cáo đã thực hiện tổng cộng 25 vụ trộm cắp tài sản tại địa bàn các huyện C, huyện K, huyện N, huyện H và thị xã B, tỉnh Đắk Lắk, cụ thể như sau:

- Vụ thứ 1: Đêm ngày 15 tháng 01 năm 2018, G, Đ, N, V bàn bạc, thống nhất đi đến huyện N, tỉnh Đắk Lắk để trộm cắp tài sản. Các bị can Đ, V điều khiển hai xe môtô nhãn hiệu Sirius của Nguyễn Ngọc G (không rõ biển kiểm soát) và N điều khiển xe ôtô tải nhãn hiệu Huyndai màu xanh lá cây, loại 1,25 tấn do N thuê của một người dân (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) tại xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk chở G mang theo một kìm thủy lực. Rạng sáng ngày 16 tháng 01 năm 2018, khi đến xã T, huyện N, tỉnh Đắk Lắk phát hiện nhà ông Văn Đức L có nhiều bao cà phê đang xếp chồng lên nhau trước cửa nhà, sau đó Đ, N đi giấu xe ôtô cách nhà anh L khoảng 500m, rồi điều khiển hai xe môtô quay lại nhà ông L. G, V trực tiếp mở hàng rào bên hông nhà vào trộm cắp được 28 (Hai mươi tám) bao cà phê nhân rồi sử dụng xe môtô chở ra bỏ lên xe ôtô chở về nhà G cất dấu. G bán số cà phê trên cho đại lý thu mua nông sản X tại xã E, huyện N, tỉnh Đắk Lắk được 67.000.000 đồng (Sáu mươi bảy triệu đồng), trả chi phí thuê xe ôtô 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), số còn lại G chia đều cho bốn người, mỗi người 16.000.000 đồng (Mười sáu triệu đồng), còn lại 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) tất cả cùng nhau tiêu xài. Số tiền được chia các bị cáo đã tiêu xài hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2502/KL-HĐĐGTS, ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã kết luận: 28 (Hai mươi tám) bao cà phê nhân, tổng khối lượng khoảng 1.960kg vào thời điểm tháng 01 năm 2018 là: 72.520.000 đồng (Bảy mươi hai triệu năm trăm hai mươi ngàn đồng) (Bút lục số 363-372).

Theo lời trình bày của ông Văn Đức L, tài sản bị mất gồm: 40 (Bốn mươi) bao cà phê nhân xô, trọng lượng khoảng 3000kg, trị giá khoảng 120.000.000đ (Một trăm triệu đồng), nhưng cơ quan điều tra chỉ có căn cứ kết luận G, Đ, N, V chỉ trộm 28 bao cà phê nhân.

- Vụ thứ 2: Đêm ngày 22 rạng sáng ngày 23 tháng 01 năm 2018, G cùng N, Đ, V bàn bạc, thống nhất chuẩn bị công cụ, phương tiện đi đến huyện C, tỉnh Đắk Lắk để trộm cắp tài sản. Các bị can Đ, V điều khiển hai xe môtô hiệu Sirius của G (không nhớ biển kiểm soát) và N điều khiển một xe ôtô hiệu Inova loại 07 chỗ ngồi do N và Đ thuê tại cửa hàng cho thuê xe ôtô tự lái X, địa chỉ tại thôn 15, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk chở G mang theo một kìm thủy lực. Khi đến thị trấn Q, huyện C, G dùng kìm thủy lực cắt ổ khoá nhà kho của anh Lê Văn N tại tổ dân phố 8, thị trấn Q, huyện C vào trộm được 18 (Mười tám) bao cà phê nhân rồi sử dụng hai xe môtô chở ra bỏ lên xe ôtô chở hai lần về nhà G cất dấu. Sau đó G bán số cà phê trên cho đại lý thu mua nông sản X, địa chỉ tại thôn 6, xã E, huyện N, tỉnh Đắk Lắk được số tiền 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng), trả chi phí thuê xe ôtô 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), số tiền còn lại G chia đều cho bốn người tham gia mỗi người 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng), số tiền được chia các bị can đã tiêu xài hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2502/KL-HĐĐGTS, ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã kết luận: 18 (Mười tám) bao cà phê nhân xô, mỗi bao trọng lượng khoảng 70kg, tổng trọng lượng khoảng 1.260kg vào thời điểm tháng 01 năm 2018 là: 46.620.000 đồng (Bốn mươi sáu triệu sáu trăm hai mươi ngàn đồng) (Bút lục số 363-372).

Theo lời trình bày của ông Lê Văn N, tài sản bị mất gồm: 29 bao cà phê nhân, khoảng 2000kg nhưng cơ quan điều tra chỉ có căn cứ kết luận G, Đ, N, V chỉ trộm 18 bao cà phê nhân.

- Vụ thứ 3: Đêm ngày 01 rạng sáng ngày 02 tháng 02 năm 2018, G, Q, V, Đ bàn bạc, thống nhất chuẩn bị công cụ, phương tiện đi đến xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk để trộm cắp tài sản. Các bị can điều khiển hai xe môtô, một chiếc xe môtô hiệu Sirius của G (không nhớ biển kiểm soát) và một chiếc xe môtô hiệu Exciter loại 135 màu xanh trắng của Đ (không nhớ biển kiểm soát), G mang theo kìm thủy lực và cắt khóa cửa nhà kho của bà Vũ Thị N tại thôn 8, xã P, huyện K vào trộm được 12 (Mười hai) bao cà phê nhân chưa khô và 01 (Một) xe đạp điện nhãn hiệu Emobike màu đỏ đen. Sau đó, các bị can sử dụng xe môtô chở số tài sản trên về nhà G cất dấu. 12 (Mười hai) bao cà phê về đổ ra sân nhà G phơi khô, sau đó G mang số cà phê trộm cắp được đến bán cho đại lý thu mua nông sản X tại xã E, huyện N, tỉnh Đắk Lắk được số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng), G chia đều cho mỗi người 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng), số tiền được chia các bị can đã tiêu xài hết. Riêng chiếc xe đạp điện, V đem về nhà để cho em gái sử dụng. Hiện cơ quan điều tra đã thu giữ chiếc xe đạp điện trên.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2502/KL-HĐĐGTS, ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã kết luận: 12 (Mười hai) bao cà phê nhân xô, mỗi bao trọng lượng khoảng 50kg, tổng trọng lượng khoảng 600kg vào thời điểm tháng 02 năm 2018 là: 22.260.000 đồng (Hai mươi hai triệu hai trăm sáu mươi ngàn đồng) và 01 (Một) chiếc xe đạp điện hiệu Emobike đã qua sử dụng, giá trị còn lại là 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng) (Bút lục số 363-372).

Theo lời trình bày của bà Vũ Thị N, tài sản bị mất gồm: 16 bao cà phê nhân, trọng lượng khoảng 1.200kg và 01 xe đạp điện nhãn hiệu Emobike màu đỏ đen, nhưng cơ quan điều tra chỉ có căn cứ kết luận các bị cáo chỉ trộm 12 bao cà phê nhân và 01 xe đạp điện.

- Vụ thứ 4: Đêm ngày 11 rạng sáng ngày 12 tháng 02 năm 2018, Q, G, N, Đ bàn bạc, thống nhất với nhau đi đến thị xã B, tỉnh Đắk Lắk để trộm cắp tài sản, tất cả đồng ý. Khi đi G mang theo một chiếc kìm thủy lực, các bị can đi trên một xe môtô nhãn hiệu Sirius (không nhớ biển kiểm soát) của G và một xe môtô hiệu Exciter 135 màu xanh trắng (không nhớ biển kiểm soát) của Đ. Khi đến phường An Lạc, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk phát hiện nhà ông Trần Trung T, trú tại thị xã B, tỉnh Đắk Lắk có nhà kho nghi chứa nhiều nông sản nên G dùng kìm thủy lực cắt ổ khóa cổng và khóa nhà kho, rồi cùng Q, N, Đ đột nhập vào nhà kho lấy trộm 28 (Hai mươi tám) bao cà phê nhân xô rồi sử dụng hai xe môtô trên chở nhiều lần về nhà G cất dấu. Sau đó G bán số cà phê trên và chia cho mỗi người 14.000.000 đồng (Mười bốn triệu đồng), số tiền được chia các bị can đã tiêu xài hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2502/KL-HĐĐGTS, ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã kết luận: 28 (Hai mươi tám) bao cà phê nhân xô, mỗi bao có trọng lượng khoảng 70kg, tổng trọng lượng khoảng 2.000kg vào thời điểm tháng 02 năm 2018 là: 74.200.000 đồng (Bảy mươi bốn triệu hai trăm ngàn đồng) (Bút lục số 363-372).

Theo lời trình bày của ông Trần Trung T, tài sản bị mất gồm: 30 bao cà phê nhân, khoảng 2000kg, 2000kg nhưng cơ quan điều tra chỉ có căn cứ kết luận các bị cáo chỉ trộm 28 bao cà phê nhân.

- Vụ thứ 5: Đêm ngày 15 rạng sáng ngày 16 tháng 02 năm 2018, Nguyễn Khắc Q và Đinh Bạt G1, sinh năm 1998, trú tại thôn 6, xã T, huyện K, tỉnh Đắk Lắk điều khiển một xe môtô hiệu Sirius, màu đỏ đen của G (không nhớ biển kiểm soát) đến xã Ea Đrông, thị xã B lấy trộm 01 (Một) chiếc xe môtô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng đen, biển kiểm soát 47C1–xxx.36 của ông Y, trú tại thôn 1, xã Ea Đrông, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk rồi đem về nhà G cất dấu và sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp. Đến ngày 20 tháng 03 năm 2018, trong khi thực hiện vụ trộm cắp tài sản tại thôn 6, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk thì G, N, Đ, V bị người dân phát hiện nên đã bỏ lại chiếc xe môtô trên. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K đã xác định chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe môtô trên là của ông Y nên đã trả lại cho ông Y quản lý và sử dụng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2502/KL-HĐĐGTS, ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã kết luận: 01 (Một) chiếc xe môtô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng đen, biển số 47C1–xxx.36 đã qua sử dụng, giá trị còn lại:

9.500.000 đồng (Chín triệu năm trăm ngàn đồng) (Bút lục số 363-372).

- Vụ thứ 6: Khoảng 23 giờ ngày 07 tháng 03 năm 2018, N, Đ, G, Q bàn bạc, thống nhất với nhau đi đến thị xã B, tỉnh Đắk Lắk để trộm cắp tài sản. Các bị can điều khiển một xe môtô hiệu Sirius (không nhớ biển kiểm soát) của G và một xe môtô hiệu Exciter 135 màu xanh trắng (không nhớ biển kiểm soát) của Đ đến phường T, thị xã B thì phát hiện nhà ông H Văn Đ tại tổ dân phố 5, phường T, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk nghi có nhiều nông sản nên N, Đ, G, Q dùng kìm thủy lực cắt ổ khóa nhà kho đột nhập vào trộm 08 (Tám) bao hồ tiêu khô. Sau đó tất cả sử dụng hai xe môtô trên chở hai lần, mỗi lần 04 (Bốn) bao về nhà G cất dấu. G bán số hồ tiêu trên và chia đều cho bốn người tham gia, mỗi người được 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng), số tiền được chia các bị can đã tiêu xài hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2502/KL-HĐĐGTS, ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk số 2502/KL-HĐĐGTS đã kết luận: 08 (Tám) bao hạt hồ tiêu khô, trọng lượng khoảng 400kg vào thời điểm tháng 03 năm 2018 là: 22.800.000 đồng (Hai mươi hai triệu tám trăm ngàn đồng) (Bút lục số 363-372).

Theo lời trình bày của ông H Văn Đ, tài sản bị mất gồm: 12 bao hạt hồ tiêu khô, trọng lượng khoảng 600kg nhưng cơ quan điều tra chỉ có căn cứ kết luận các bị cáo chỉ trộm 08 bao hạt tiêu khô.

- Vụ thứ 7: Vào một ngày không xác định trong tháng 03 năm 2018, V, Q bàn bạc thống nhất sang huyện N, tỉnh Đắk Lắk để trộm cắp tài sản. Cả hai đi trên một xe môtô hiệu Sirius biển kiểm soát 47C1–xxx.36, mà trước đó đã trộm cắp của ông Y, đến xã P, huyện N, tỉnh Đắk Lắk. Tại đây, V và Q đột nhập vào nhà ông Lê Văn H tại thôn X, xã P, huyện N, tỉnh Đắk Lắk sử dụng kìm thủy lực mang theo để cắt ổ khóa nhà kho vào trộm 05 (Năm) bao hồ tiêu khô rồi sử dụng xe môtô chở hai lần về nhà G cất dấu. Sau đó, V và Q nhờ G bán số hồ tiêu trên. G bán số hồ tiêu trộm cắp được và đưa cho V và Q mỗi người 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng), số tiền còn lại G giữ lấy. Số tiền được chia các bị can đã tiêu xài hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2502/KL-HĐĐGTS, ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã kết luận: 05 (Năm) bao hạt hồ tiêu khô cột túm miệng, trọng lượng khoảng 160kg vào thời điểm tháng 03 năm 2018 là: 9.120.000 đồng (Chín triệu một trăm hai mươi ngàn đồng) (Bút lục số 363-372).

Theo lời trình bày của ông Lê Văn H, tài sản bị mất gồm: 05 bao hạt hồ tiêu khô cột túm miệng, trọng lượng khoảng 230kg nhưng cơ quan điều tra chỉ có căn cứ kết luận các bị cáo chỉ trộm 05 bao hạt tiêu khô, trọng lượng khoảng 160kg.

- Vụ thứ 8: Vào một ngày không nhớ rõ, trong tháng 03 năm 2018, V và Q bàn bạc, thống nhất với nhau đến huyện N, tỉnh Đắk Lắk để trộm cắp tài sản. Cả hai điều khiển xe môtô hiệu Sirius (không nhớ biển kiểm soát, xe Q đã trộm của ông Y) đến xã T, huyện N đột nhập vào nhà bà Vũ Thị H tại thôn Tân T, xã T, huyện N trộm 04 (Bốn) bao hồ tiêu khô rồi sử dụng xe môtô chở về nhà G cất dấu (chở làm hai lần). Sau đó, V và Q nhờ G bán số hồ tiêu trên. G bán số hồ tiêu trộm cắp được và đưa cho V và Q mỗi người 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), số tiền còn lại G giữ lấy, số tiền được chia các bị can đã tiêu xài hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2502/KL-HĐĐGTS, ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã kết luận: 04 (Bốn) bao hạt hồ tiêu khô cột túm miệng, trọng lượng khoảng 130kg vào thời điểm tháng 03 năm 2018 là: 7.410.000 đồng (Bảy triệu bốn trăm mười ngàn đồng) (Bút lục số 363-372).

- Vụ thứ 9: Đêm ngày 19 rạng sáng ngày 20 tháng 03 năm 2018, G, Đ, N và V bàn bạc, thống nhất với nhau đi đến xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk trộm cắp tài sản. Sau đó, Đ và V đi trên một xe môtô hiệu Sirius (không nhớ biển kiểm soát) của G và một xe môtô hiệu Sirius (không nhớ biển kiểm soát, xe Q đã trộm của ông Y), N điều khiển một xe ôtô hiệu Inova loại 07 chỗ ngồi do N và Đ thuê tại cửa hàng cho thuê xe ôtô tự lái X, địa chỉ thôn 15, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk chở G đến xã E, huyện K phát hiện gia đình ông Ưng C, trú tại thôn 6, xã E, huyện K có nhà kho nghi có nhiều nông sản, nên đột nhập trộm cắp tài sản của gia đình ông Ưng C. G mang theo kìm thủy lực leo qua hàng rào cắt ổ khóa cổng và ổ khóa kho nông sản rồi tất cả cùng vào nhà kho lấy trộm hồ tiêu, trong quá trình di chuyển số hồ tiêu từ kho nông sản của gia đình ông Ưng C đến xe ôtô thì bị người dân phát hiện, truy đuổi nên các bị can bỏ chạy, vứt bỏ lại một chiếc xe môtô hiệu Sirius màu trắng đỏ đen và trộm được 09 (Chín) bao hồ tiêu khô. Sau đó sử dụng xe ôtô chở về nhà G cất dấu. G mang số hồ tiêu trộm cắp được đến bán cho đại lý thu mua nông sản X tại ở xã E, huyện N, tỉnh Đắk Lắk được số tiền 27.000.000 đồng (Hai mươi bảy triệu đồng), trả chi phí thuê xe ôtô 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), chia đều cho bốn người tham gia mỗi người 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng), còn lại số tiền 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) cùng nhau tiêu xài. Số tiền được chia các bị can đã tiêu xài hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2502/KL-HĐĐGTS, ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã kết luận: 09 (Chín) bao hồ tiêu khô, trọng lượng khoảng 495kg, giá trị: 28.215.000 đồng (Hai mươi tám triệu hai trăm mười lăm ngàn đồng) (Bút lục số 363-372).

Theo lời trình bày của ông Ưng C, tài sản bị mất gồm: 16 bao hồ tiêu khô, trọng lượng khoảng 1000kg nhưng cơ quan điều tra chỉ có căn cứ kết luận các bị cáo chỉ trộm 09 bao hạt tiêu khô, trọng lượng khoảng 495kg.

- Vụ thứ 10: Đêm ngày 22 rạng sáng ngày 23 tháng 03 năm 2018, G, Đ, N và Q bàn bạc, thống nhất với nhau đi đến thị xã B, tỉnh Đắk Lắk để trộm cắp tài sản. Đ và Q đi trên hai xe môtô hiệu Sirius (không nhớ biển kiểm soát) của G, N điều khiển một xe ôtô hiệu Inova loại 07 chỗ ngồi do N và Đ thuê tại cửa hàng cho thuê xe ôtô tự lái X, địa chỉ thôn 15, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk chở G đến phường Thống Nhất, thị xã B phát hiện gia đình bà Nguyễn Thị Thanh T tại thị xã B, tỉnh Đắk Lắk có nhà kho nghi có nhiều nông sản nên tất cả bàn bạc, thống nhất đột nhập vào ngôi nhà trên. G sử dụng kìm thủy lực cắt ổ khóa nhà kho vào lấy trộm 10 (Mười) bao tiêu khô rồi sử dụng hai xe môtô chở ra bỏ lên xe ôtô chở về nhà G cất dấu. G bán số hồ tiêu trên được 26.000.000 đồng (Hai mươi sáu triệu đồng), trả chi phí thuê xe ôtô 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng, còn lại chia mỗi người 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng), số tiền được chia các bị can đã tiêu xài hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2502/KL-HĐĐGTS, ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã kết luận: 10 (Mười) bao hạt hồ tiêu khô, trọng lượng mỗi bao khoảng 45kg, tổng trọng lượng khoảng 450kg vào thời điểm tháng 03 năm 2018 là: 25.650.000 đồng (Hai mươi lăm triệu sáu trăm năm mươi ngàn đồng) (Bút lục số 363-372).

- Vụ thứ 11: Đêm ngày 30 rạng sáng ngày 31 tháng 03 năm 2018, G, N, Đ, V bàn bạc, thống nhất với nhau đi đến huyện N, tỉnh Đắk Lắk trộm cắp tài sản. Đ, V điều khiển hai xe môtô hiệu Sirius (không nhớ biển kiểm soát) của G, N điều khiển một xe ôtô hiệu Innova loại 07 chỗ ngồi do N và Đ thuê tại cửa hàng cho thuê xe ô tô tự lái X, địa chỉ thôn 15, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk chở G đến xã P, huyện N thì phát hiện nhà ông Phan Hồng H tại thôn 9, xã P, huyện N có nhà kho nghi có nhiều nông sản bên trong. G sử dụng kìm thủy lực cắt ổ khóa cửa nhà kho cùng N, Đ, V đột nhập vào bên trong trộm 18 (Mười tám) bao cà phê nhân xô rồi sử dụng xe ôtô chở số cà phê trên về nhà G cất dấu (chở làm hai lần). G bán số cà phê trên cho đại lý cà phê X tại E, huyện N, tỉnh Đắk Lắk được số tiền 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng), trả chi phí thuê xe ôtô 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng). Số tiền còn lại chia nhau mỗi người 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng), số tiền được chia các bị can đã tiêu xài hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2502/KL-HĐĐGTS, ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk số 2502/KL-HĐĐGTS đã kết luận: 18 (Mười tám) bao cà phê nhân, trọng lượng khoảng 1260kg, giá trị: 45.864.000 đồng (Bốn mươi lăm triệu tám trăm sáu mươi bốn ngàn đồng) (Bút lục số 363-372).

- Vụ thứ 12: Đêm ngày 02 rạng sáng ngày 03 tháng 04 năm 2018, N, Đ, G, Q bàn bạc, thống nhất với nhau đi đến huyện C, tỉnh Đắk Lắk để trộm cắp tài sản. Đ, Q điều khiển hai xe môtô hiệu Sirius (không nhớ biển kiểm soát) của G, N điều khiển một xe ôtô hiệu Innova loại 07 chỗ ngồi do N và Đ thuê tại cửa hàng cho thuê xe ôtô tự lái X, địa chỉ thôn 15, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk chở G đến xã C, huyện C thì phát hiện nhà ông Bùi Văn C tại thôn T, xã C, huyện C nghi có nhiều tài sản nên tất cả đã bàn bạc, thống nhất đột nhập vào nhà kho của ông C để trộm cắp tài sản. G leo qua hàng rào, cắt cầu dao điện, sử dụng kìm thủy lực cắt ổ khóa cổng và ổ khóa nhà kho để cho Đ, G, Q cùng vào trong nhà kho trộm cắp 18 (Mười tám) bao cà phê nhân xô rồi sử dụng hai xe môtô chở cà phê ra bỏ lên xe ôtô về nhà G cất dấu (chở làm hai lần). G bán số cà phê nhân xô trên cho đại lý thu mua nông sản T – T tại xã E, huyện N, tỉnh Đắk Lắk được số tiền 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng), trả chi phí thuê xe ôtô 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), số tiền còn lại chia nhau mỗi người 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng), số tiền được chia các bị can đã tiêu xài hết.

Ngày 01/10/2019, Hội đồng định giá tài sản tỉnh Đắk Lắk có kết luận số 2502/KL-HĐĐGTS định giá 18 bao cà phê nhân, trọng lượng khoảng 1260kg, giá trị: 50.000.000đ (Bốn mươi lăm triệu tám trăm sáu mươi bốn nghìn đồng).

- Vụ thứ 13: Đêm ngày 10 rạng sáng ngày 11 tháng 04 năm 2018, N, Đ, G, Q bàn bạc, thống nhất với nhau đi đến thị xã B, tỉnh Đắk Lắk để trộm cắp tài sản. Đ, Q điều khiển hai xe môtô hiệu Sirius (không nhớ biển kiểm soát) của G, còn N điều khiển một xe ôtô hiệu Innova loại 07 chỗ ngồi do N và Đ thuê tại cửa hàng cho thuê xe ôtô tự lái X, địa chỉ thôn 15, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk chở G đến xã C, thị xã B. G sử dụng kìm thủy lực cắt ổ khóa nhà kho đại lý thu mua nông sản của ông Bùi Ngọc Đ tại xã C, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk đột nhập vào trộm 07 (Bảy) bao hồ tiêu khô bỏ lên xe ôtô chở về nhà G cất dấu. Sau đó G bán số hồ tiêu trên được 21.000.000 đồng (Hai mươi mốt triệu đồng), trả chi phí thuê xe ôtô 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), số tiền còn lại chia đều cho mỗi người 4.500.000 đồng (Bốn triệu năm trăm ngàn đồng), số tiền còn lại tất cả tiêu xài chung. Số tiền được chia các bị can đã tiêu xài hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2502/KL-HĐĐGTS, ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk số 2502/KL-HĐĐGTS đã kết luận: 07 (Bảy) bao hạt hồ tiêu khô, mỗi bao có trọng lượng khoảng 55kg, tổng trọng lượng khoảng 385kg vào thời điểm tháng 04 năm 2018 là: 21.175.000 đồng (Hai mươi mốt triệu một trăm bảy mươi lăm ngàn đồng) (Bút lục số 363-372).

Theo lời trình bày của ông Bùi Ngọc Đ, tài sản bị mất gồm: 20 bao hồ tiêu khô, trọng lượng khoảng 1200kg và tiền mặt 3.000.000đ nhưng cơ quan điều tra chỉ có căn cứ kết luận các bị cáo chỉ trộm 07 bao hạt tiêu khô, trọng lượng khoảng 385kg.

- Vụ thứ 14: Đêm ngày 20 rạng sáng 21 tháng 04 năm 2018, G, N, Q bàn bạc, thống nhất với nhau đi đến huyện C, tỉnh Đắk Lắk trộm cắp tài sản, tất cả đồng ý. G, Q điều khiển hai xe môtô hiệu Sirius (không nhớ biển kiểm soát) của G, N điều khiển một xe ôtô hiệu Innova loại 07 chỗ ngồi do N thuê tại cửa hàng cho thuê xe ôtô tự lái X, địa chỉ thôn 15, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk đến thị trấn E, huyện C thì phát hiện nhà kho của Công ty TNHH cà phê H, tại tổ dân phố T, thị trấn E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk do ông Lâm Văn Tơ làm quản lý, nghi có nhiều nông sản nên G sử dụng kìm thủy lực cắt ổ khóa cửa kho đột nhập vào trộm 08 (Tám) bao cà phê nhân và 01 (Một) máy đo độ cà phê bỏ lên xe ôtô chở về nhà G cất dấu. G bán số cà phê trên cho đại lý thu mua nông sản X tại xã E, huyện N, tỉnh Đắk Lắk được số tiền 18.500.000 đồng (Mười tám triệu năm trăm ngàn đồng), trả chi phí thuê xe ôtô 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), số tiền còn lại chia nhau mỗi người 5.500.000 đồng (Năm triệu năm trăm nghìn đồng), số tiền được chia các bị can đã tiêu xài hết. Còn 01 (Một) máy đo độ cà phê G cất dấu ở nhà G, Cơ quan điều tra đã thu giữ.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2502/KL-HĐĐGTS, ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk số 2502/KL-HĐĐGTS đã kết luận: 08 (Tám) bao cà phê nhân xô, mỗi bao trọng lượng khoảng 65kg, tổng trọng lượng khoảng 520kg vào thời điểm tháng 04 năm 2018 là: 19.xxx.000 đồng (Mười chín triệu không trăm tám mươi bốn ngàn đồng) và 01 (Một) máy đo độ ẩm nông sản nhãn hiệu Kett PM-600, giá trị còn lại là 13.000.000 đồng (Mười ba triệu đồng) (Bút lục số 363-372).

- Vụ thứ 15: Đêm ngày 04 rạng sáng ngày 05 tháng 05 năm 2018, G, N, Đ, V bàn bạc, thống nhất với nhau đi đến huyện C, tỉnh Đắk Lắk trộm cắp tài sản, tất cả đồng ý. Đ, V điều khiển hai xe môtô hiệu Sirius (không nhớ biển kiểm soát) của G, N điều khiển một xe ôtô hiệu Innova loại 07 chỗ ngồi do N thuê tại cửa hàng cho thuê xe ôtô tự lái X, địa chỉ thôn 15, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk chở G đến xã P, huyện C phát hiện nhà bà Dương Thị N tại thôn 8, xã P, huyện C, tỉnh Đắk Lắk nghi có nhiều nông sản nên tất cả bàn bạc, thống nhất vào trộm cắp tài sản của gia đình bà N. G sử dụng kìm thủy lực cắt ổ khóa nhà kho rồi tất cả đột nhập vào trộm cắp 18 (Mười tám) bao hồ tiêu khô. Sau đó sử dụng hai xe môtô chở hồ tiêu bỏ lên xe ôtô chở về nhà G cất dấu (chở làm hai lần). G bán số hồ tiêu trên cho đại lý thu mua nông sản X tại xã E, huyện N, tỉnh Đắk Lắk được số tiền 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng), trả chi phí thuê xe ôtô 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), số tiền còn lại chia nhau mỗi người 14.500.000 đồng (Mười bốn triệu năm trăm ngàn đồng). Số tiền được chia các bị can đã tiêu xài hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2502/KL-HĐĐGTS, ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk số 2502/KL-HĐĐGTS đã kết luận: 18 (Mười tám) bao hạt hồ tiêu khô, trọng lượng mỗi bao khoảng 55kg, tổng trọng lượng khoảng 990kg vào thời điểm tháng 5 năm 2018 là: 57.420.000 đồng (Năm mươi bảy triệu bốn trăm hai mươi ngàn đồng) (Bút lục số 363-372).

Theo lời trình bày của bà Dương Thị N, tài sản bị mất gồm: 28 bao hồ tiêu khô, trọng lượng khoảng 1764kg nhưng cơ quan điều tra chỉ có căn cứ kết luận các bị cáo chỉ trộm 18 bao hạt tiêu khô, trọng lượng khoảng 990kg.

- Vụ thứ 16: Đêm ngày 10 rạng sáng ngày 11 tháng 06 năm 2018, G, N, Đ, V bàn bạc, thống nhất với nhau đi đến huyện C, tỉnh Đắk Lắk trộm cắp tài sản, tất cả đồng ý. Đ, V điều khiển hai xe môtô hiệu Sirius (không nhớ biển kiểm soát) của G, N điều khiển một xe ôtô hiệu Innova loại 07 chỗ ngồi do N thuê tại cửa hàng cho thuê xe ôtô tự lái X, địa chỉ thôn 15, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk chở G đến xã Ea Kpam, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, thì phát hiện nhà ông Nguyễn C, trú tại thôn 8, xã Ea Kpam, huyện C, tỉnh Đắk Lắk nghi có nhiều tài sản nên tất cả bàn bac, thống nhất trộm cắp tài sản nhà ông C. G sử dụng kìm thủy lực cắt ổ khóa nhà kho rồi tất cả đột nhập vào trộm được 04 (Bốn) bao tiêu khô thì bị người dân phát hiện nên tất cả bỏ chạy, N điều khiển xe ôtô chở 04 (Bốn) bao hồ tiêu về nhà G cất dấu. G bán số hồ tiêu trên cho đại lý thu mua nông sản X tại xã E, huyện N, tỉnh Đắk Lắk được số tiền 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng), trả chi phí thuê xe ôtô 2.000.000 đồng, số tiền còn lại chia đều cho bốn người tham gia mỗi người 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm ngàn đồng). Số tiền được chia các bị can đã tiêu xài hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2502/KL-HĐĐGTS, ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk số 2502/KL-HĐĐGTS đã kết luận: 04 (Bốn) bao hạt hồ tiêu khô, trọng lượng mỗi bao khoảng 55kg, tổng trọng lượng khoảng 220kg vào thời điểm tháng 06 năm 2018 là:

12.320.000 đồng (Mười hai triệu ba trăm hai mươi ngàn đồng) (Bút lục số 363-372).

Theo lời trình bày của ông Nguyễn C, tài sản bị mất 08 bao hồ tiêu khô, trọng lượng khoảng 432kg nhưng cơ quan điều tra chỉ có căn cứ kết luận các bị cáo chỉ trộm 04 bao hạt tiêu khô, trọng lượng khoảng 220kg.

- Vụ thứ 17: Đêm ngày 11 rạng sáng ngày 12 tháng 06 năm 2018, G, N, Đ bàn bạc, thống nhất với nhau đi đến nhà ông Trần Văn K, trú tại B, xã E, huyện N trộm cắp tài sản. Khi đi G mang theo kìm thủy lực rồi cùng N, Đ điều khiển một xe môtô hiệu Sirius của G đến nhà ông K, G sử dụng kìm thủy lực cắt ổ khóa cửa đột nhập vào bên trong lấy trộm 01 (Một) tượng gỗ thủy tùng, hình dáng phật di lặc đứng trên con rồng vác cành đào, kích thước cao khoảng 140cm, rộng 60cm, dày 25cm; 01 (Một) tượng gỗ thủy tùng, hình dáng phật di lặc đứng trên con nghê vác cành đào, kích thước cao 110cm, rộng 40cm, dày 25cm; 01 (Một) tượng gỗ thủy tùng, có hình dáng phật di lặc ngồi, kích thước cao 25cm, rộng 20cm, dày 20cm; 01 (Một) cặp lục bình gỗ thủy tùng cao 125cm, đường kính 30cm; 01 (Một) Tivi màn hình phẳng hiệu SAM SUNG 32inch và 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6. Sau khi trộm cắp tài sản xong, do sợ bị phát hiện nên G đã vứt bỏ chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 dọc đường đi về; 01 (một) chiếc Tivi màn hình phẳng hiệu SAM SUNG 32inch màu đen thì Đ đem về nhà để sử dụng (Cơ quan điều tra đã thu giữ). Các tài sản còn lại các bị can sử dụng xe môtô chở về nhà G cất dấu, sau đó G mang số tượng gỗ và lục bình bằng gỗ thủy tùng đi bán cho môt người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch tại tỉnh Gia Lai) được 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng) chia đều cho ba người tham gia mỗi người 13.000.000 đồng (Mười ba triệu đồng), còn lại 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) thì tiêu xài chung. Số tiền được chia các bị can đã tiêu xài hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2502/KL-HĐĐGTS, ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk số 2502/KL-HĐĐGTS đã kết luận: 01 (một) chiếc Tivi màn hình phẳng màu đen hiệu SAM SUNG 32 Inch màu đen, giá trị còn lại 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng); 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu Gold, giá trị còn lại: 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng); 03 (Ba) tượng gỗ và 01 (Một) cặp lục bình vì tài sản không còn và không thu hồi được, nên Hội đồng không có cơ sở để đánh giá về khối lượng, chất lượng và chủng loại gỗ (Bút lục số 363-372).

Tại phiên tòa sơ thẩm, bà Thái Thị N (Vợ ông K) khai còn bị mất số tiền là 2.300.000 đồng nhưng cơ quan điều tra không có căn cứ chứng minh.

- Vụ thứ 18: Đêm ngày 20 rạng sáng ngày 21 tháng 7 năm 2018, G, Đ, N, Q bàn bạc, thống nhất với nhau đến huyện L, tỉnh Đắk Lắk trộm cắp tài sản. Tất cả điều khiển một xe môtô hiệu Sirius (không nhớ biển kiểm soát) của N, một xe môtô hiệu Sirius (không nhớ biển kiểm soát) của Q đến nhà nhà ông Lê Ngọc H tại tổ dân phố 8, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Đắk Lắk. Đến nơi, Q, N đứng ngoài cảnh giới còn G, Đ đột nhập vào nhà lấy trộm 01 (một) xe môtô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 73E1-13773 số khung: RLCS5C630D975xxx1, số máy: 5C63752103, sau đó điều khiển xe môtô vừa trộm cắp được về nhà G cất dấu và sử dụng chứ không bán, hiện Cơ quan điều tra đã thu giữ tài sản trên.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 1627/KL-HĐĐGTS Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã kết luận: 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, số khung: RLCS5C630D975xxx1, số máy: 5C63752103, biển số 73E1–13773 tại thời điểm tháng 7 năm 2018 là 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng) (Bút lục số 363-372).

- Vụ thứ 19: Cùng đêm ngày 20 rạng sáng ngày 21 tháng 7 năm 2018, sau khi thực hiện xong vụ trộm cắp một xe môtô hiệu Sirius của gia đình ông Lê Ngọc H thì G, Đ, Q, N tiếp tục di chuyển đến nhà ông Vũ Q T, trú tại tổ dân phố 9, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Đắk Lắk để lấy trộm 01 (Một) xe môtô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen xanh, biển kiểm soát 47D1-26474, sau đó điều khiển xe môtô vừa trộm cắp được về nhà G cất dấu và sử dụng chứ không bán.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2501/KL-HĐĐGTS 2501/KL-HĐĐGTS ngày 01 tháng 10 năm 2019, Hội đồng định giá tài sản tỉnh Đắk Lắk có kết luận số kết luận: Giá trị 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen xanh, biển số 47D1 – 26474 tại thời điểm ngày 21 tháng 7 năm 2018 là 11.400.000 đồng (Mười một triệu bốn trăm ngàn đồng) (Bút lục số 355-362).

- Vụ thứ 20: Đêm ngày 22 rạng sáng ngày 23 tháng 8 năm 2018, Đ, Q bàn bạc, thống nhất với nhau cùng đi đến xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk để trộm cắp tài sản. Cả hai điều khiển một xe môtô hiệu Sirius màu đỏ đen (không nhớ biển kiểm soát, xe đã trộm của ông Lê Ngọc H) đến nhà bà Nguyễn Thị Thanh H, trú tại thôn 8, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk leo qua cổng cắt ổ khóa cổng vào trộm cắp 01 (Một) xe đạp điện màu đỏ - đen nhãn hiệu Japan và 01 (Một) xe đạp điện nhãn hiệu Ngọc Hà màu đỏ trắng rồi sử dụng xe môtô chở xe đạp điện về nhà G cất dấu (chở hai lần). Sau đó Q và Đ đem bán 01 (Một) chiếc xe đạp điện cho một người đàn ông tên C (không rõ nhân thân, lai lịch) tại xã P, huyện N được số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng), chiếc còn lại bán cho bà N gần nhà Q được số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng). Sau khi bán, Q và Đ chia nhau mỗi người 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm ngàn đồng) và đã tiêu xài hết.

Qua xác minh tại xã P, huyện N, tỉnh Đắk Lắk cung cấp trên địa bàn xã P có hai đối tượng tên thường gọi là “C” có nhân thân như sau: Đỗ T T, sinh năm 1999 và Đỗ M, sinh năm 2001 cùng trú tại thôn L, xã P, huyện N, tỉnh Đắk Lắk.

Tuy nhiên, hiện nay cả hai đều đã đi làm ăn xa, không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra chưa làm việc được.

Đối với người phụ nữ tên N đã mua 01 (một) chiếc xe đạp điện của bị can Q, qua xác minh tại địa phương xác định có bà Nguyễn Thị N; từ đầu năm 2019 đến nay bà N đi làm ăn xa, không có mặt tại địa phương. Tiến hành làm việc với chồng bà N là ông Quách Trọng S, sinh năm 1976, trú tại thôn 4, xã T, huyện K, tỉnh Đắk Lắk cho biết hiện bà N, không có mặt tại địa phương, đang đi làm ăn ở miền N, gia đình ông có 01 (một) chiếc xe đạp điện mua từ năm 2017 để cho con đi học và không phải mua của bị can Q.

Tại Bản kết luận định giá tài sản ngày 17 tháng 9 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện K kết luận: Giá trị 01 (Một) xe đạp điện nhãn hiệu Japan màu đỏ đen, giá trị còn lại: 11.000.000 đồng (Mười một triệu đồng) và 01 (Một) xe đạp điện nhãn hiệu Ngọc Hà màu đỏ trắng, giá trị còn lại: 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng), tổng giá trị tài sản thiệt hại là 18.000.000 đồng (Mười tám triệu đồng) (Bút lục số 380-384).

- Vụ thứ 21: Đêm ngày 10 rạng sáng ngày 11 tháng 9 năm 2018, Đ điều khiển một xe môtô hiệu Sirius chở G đến khu vực gần trường trung học phổ thông Phan Đăng L, tại xã P, huyện K rồi Đ điều khiển xe môtô về nhà Đ tại xã C, huyện K còn G đi bộ đến thôn 12, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk đột nhập vào nhà nhà ông Phan Văn Q trộm cắp 01 (Một) chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Osakar màu đen xám trắng, sau đó đem bán cho chị T, trú tại thôn T, xã T, huyện N với số tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng) nhưng chưa lấy tiền.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2502/KL-HĐĐGTS, ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã kết luận: Giá trị 01 (Một) chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Osakar màu đen xám trắng, số khung: RMED250MHH12A01826 tại thời điểm ngày 11 tháng 9 năm 2018 là 11.400.000 đồng (Mười một triệu bốn trăm ngàn đồng) (Bút lục số 363-372).

- Vụ thứ 22: Vào một ngày không nhớ rõ trong tháng 10 năm 2018, G, Đ, N, Q bàn bạc, thống nhất với nhau đi đến huyện N, tỉnh Đắk Lắk để trộm cắp tài sản. Tất cả đi trên hai xe môtô hiệu Sirius (xe môtô đã trộm cắp được trước đó tại thị trấn Đ, huyện H) đến thị trấn N, huyện N phát hiện nhà bà Mai Thị H Y tại tổ dân phố 3, thị trấn N, huyện N, tỉnh Đắk Lắk nghi có nhiều tài sản nên đột nhập vào bên trong trộm 01 (Một) con chó Beggiê nhốt trong chuồng ngay cửa nhà kho phía sau nhà, tiếp tục cắt cửa nhà kho vào trộm 08 (Tám) bao hồ tiêu khô cột túm miệng, sau đó đổ dồn lại được 04 (Bốn) bao hồ tiêu đầy rồi sử dụng hai xe môtô chở về nhà G cất dấu. G bán số hồ tiêu trên và chia đều mỗi người 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng). Số tiền được chia các bị can đã tiêu xài hết. Còn con chó Beggiê thì các bị can đã cho một người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch tại xã T, huyện K.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2502/KL-HĐĐGTS, ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã kết luận: Giá trị 04 (Bốn) bao hạt hồ tiêu khô, trọng lượng mỗi bao khoảng 50kg, tổng trọng lượng khoảng 200kg vào thời điểm tháng 10 năm 2018 là 11.400.000 đồng (Mười một triệu bốn trăm ngàn đồng), còn 01 (một) con chó Becgie thuần chủng thì Hội đồng định giá thống nhất không xác định giá trị tài sản là vì tài sản không còn và không thu hồi được, nên Hội đồng không có cơ sở để đánh giá về chủng loại, trọng lượng (Bút lục số 363-372).

Theo lời trình bày của bà Mai Thị H Y, tài sản bị mất gồm: 08 (tám) bao hạt hồ tiêu khô, trọng lượng 500kg và 01 (một) con chó Beggiê nhưng cơ quan điều tra chỉ có căn cứ kết luận các bị cáo chỉ trộm 04 bao hạt tiêu khô, trọng lượng khoảng 200kg và 01 con chó.

- Vụ thứ 23: Khoảng giữa tháng 10 năm 2018, G, V bàn bạc, thống nhất với nhau đi đến thị trấn N, huyện N, tỉnh Đắk Lắk trộm cắp tài sản. Cả hai điều khiển xe môtô hiệu Sirius (không nhớ biển kiểm soát) của G đến thị trấn N rồi G và V đi vòng ra con đường phía sau lưng nhà ông Chu Văn K tại số nhà 158 đường Nguyễn Tất T, thị trấn N, huyện N, tỉnh Đắk Lắk đột nhập vào phía sau sử dụng kìm thủy lực cắt ổ khóa nhà kho vào trộm cắp 14 (Mười bốn) khúc gỗ thủy tùng mỗi khúc dài 03m và 02 (Hai) khúc gỗ thủy tùng dài mỗi khúc 1,5m rồi sử dụng xe môtô chở nhiều lần về nhà G cất dấu và đến khi bị bắt G chưa tiêu thụ được. Cơ quan điều tra đã thu giữ 15 (Mười lăm) khúc gỗ thủy tùng nêu trên, còn 01 (Một) khúc gỗ thủy tùng chưa xác định được.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2502/KL-HĐĐGTS, ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã kết luận: Giá trị 15 (Mười lăm) thanh gỗ thủy tùng là 161.714.000 đồng (Một trăm sáu mươi mốt triệu bảy trăm mười bốn ngàn đồng) và Hội đồng định giá thống nhất không xác định giá trị tài sản là 01 (Một) thanh gỗ thủy tùng có kích thước dài 150cm, vuông 15cm vì tài sản không còn và không thu hồi được, nên Hội đồng không có cơ sở để đánh giá về khối lượng, chất lượng và chủng loại gỗ (Bút lục số 363-372).

- Vụ thứ 24: Đêm ngày 17 rạng sáng ngày 18 tháng 10 năm 2018 G, N, V, Q bàn bạc, thống nhất với nhau đi đến nhà ông Phạm Văn N tại thôn Trung Hồ, xã E, huyện N, tỉnh Đắk Lắk để trộm cắp tài sản. G, N, V và Q điều khiển hai xe môtô hiệu Sirius (không nhớ biển kiểm soát đã trộm cắp được trước đó tại thị trấn Đ, huyện L) đến nhà ông N. Tại đây, G sử dụng kìm thủy lực cắt hàng rào thép lưới B40 phía hông phải trước nhà ông N rồi đi sang vườn nhà bên cạnh vòng ra phía sau nhà leo qua hàng rào phía sau bắt 01 (Một) con chó rồi quay ra phía trước cổng thả con chó ra, sau đó G, N, V, Q quay lại đường cũ leo qua hàng rào phía sau đột nhập vào nhà ông N lấy trộm 01 (Một) tượng bằng gỗ, chủng loại T Lào, có hình dáng phật di lặc đứng trên cá chép, có kích thước cao 120cm, rộng 40cm, dày 30cm; 01 (Một) tượng bằng gỗ, chủng loại T Lào, có hình dáng phật di lặc vác cành đào đứng trên bao tiền, có kích thước cao 90cm, rộng 30cm, dày 30cm và 01 (Một) tượng bằng gỗ, chủng loại T Lào, có hình dáng phật di lặc ngồi, có kích thước cao 30cm, rộng 40cm, dày 30cm đang ngâm dưới hồ nước phía sau nhà. G, N, V, Q dùng cây chọc cho ba bức tượng nổi lên và khiêng qua hàng rào, tiếp tục quay lại lấy trộm 04 (Bốn) khúc gỗ tròn đường kính 20cm x 80cm và 01 (Một) chiếc máy cưa lốc dùng để cắt gỗ hiệu Ractông. Sau đó các bị can sử dụng hai xe môtô chở về nhà G cất dấu cho đến khi bị bắt. Hiện Cơ quan điều tra đã thu giữ 03 (Ba) bức tượng có hình dáng phật di lặc, các tài sản còn lại chưa xác định được.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2502/KL-HĐĐGTS, ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã kết luận: Giá trị 01 (Một) tượng bằng gỗ, chủng loại T đỏ, có hình dáng phật di lặc đứng trên cá chép, có kích thước cao 127cm, rộng 65cm, dày 35cm trị giá 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng); 01 (Một) tượng bằng gỗ, chủng loại T đỏ, có hình dáng phật di lặc vác cành đào đứng trên bao tiền, có kích thước cao 85cm, rộng 30cm, dày 24cm trị giá 16.000.000 đồng (Mười sáu triệu đồng); 01 (Một) tượng bằng gỗ, chủng loại T đỏ, có hình dáng phật di lặc ngồi, có kích thước cao 30cm, rộng 40cm, dày 30cm trị giá 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng); 01 (Một) máy cưa lốc hiệu màu đỏ trắng nhãn hiệu Ractông trị giá 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng). Còn 04 (Bốn) khúc gỗ, chủng loại T đỏ, kích thước cao 70cm, đường kính 20cm thì Hội đồng định giá thống nhất không xác định giá trị tài sản trên vì tài sản không còn và không thu hồi được, nên Hội đồng không có cơ sở để đánh giá về khối lượng, chất lượng và chủng loại gỗ (Bút lục số 363-372).

- Vụ thứ 25: Đêm ngày 22 rạng sáng ngày 23 tháng 10 năm 2018, G, N, Đ, Q bàn bạc, thống nhất với nhau đi đến thị xã B, tỉnh Đắk Lắk để trộm cắp tài sản. Đ và Q đi trên hai chiếc xe môtô hiệu Sirius (không nhớ biển kiểm soát, xe đã trộm cắp được tại thị trấn Đ, huyện L) và N điều khiển một chiếc xe ôtô hiệu Huyndai Santafe màu trắng loại 07 chỗ ngồi do N thuê tại cửa hàng cho thuê xe tự lái T, tại phường Đ, thị xã B chở G đến nhà ông Hồ Thân H tại tổ dân phố 5, phường Đoàn Kết, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. Tại đây, G mang theo kìm thủy lực leo qua cổng cắt cầu dao điện, sử dụng kìm thủy lực cắt ổ khóa cổng và nhà kho rồi G, N, Đ, Q cùng đột nhập vào nhà kho trộm được 18 (Mười tám) bao cà phê nhân xô rồi sử dụng hai xe môtô chở bỏ lên xe ôtô chở về nhà G cất dấu. Sau đó G bán số cà phê trên cho đại lý cà phê T – T ở xã E, huyện N, tỉnh Đắk Lắk được 56.700.000 đồng (Năm mươi sáu triệu bảy trăm ngàn đồng), trả chi phí thuê xe ôtô 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), chia cho Đ, V mỗi người 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng), chia cho Q 12.500.000 đồng (Mười hai triệu năm trăm ngàn đồng). Số tiền được chia các bị can đã tiêu xài hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2502/KL-HĐĐGTS, ngày 01 tháng 10 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã kết luận: Giá trị 18 (Mười tám) bao cà phê nhân xô, mỗi bao trọng lượng khoảng 75kg, tổng trọng lượng khoảng 1.350kg tại thời điểm tháng 10 năm 2018 trị giá là 49.680.000 đồng (Bốn mươi chín triệu sáu trăm tám mươi ngàn đồng) (Bút lục số 363-372).

Theo lời trình bày của ông Hồ Thân H, tài sản bị mất gồm: 19 bao cà phê nhân xô, trọng lượng khoảng 1.600kg, trị giá khoảng 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng) nhưng cơ quan điều tra chỉ có căn cứ kết luận các bị cáo chỉ trộm 18 bao cà phê nhân, trọng lượng khoảng 1.350kg.

Ngoài 25 vụ trộm cắp tài sản nêu trên, bị can Q còn khai nhận cùng đồng bọn đã thực hiện thêm 04 (Bốn) vụ trộm cắp tài sản khác trên địa bàn các huyện K, huyện N và thị xã B, tỉnh Đắk Lắk trong khoảng trong thời gian từ tháng 02 năm 2018 đến tháng 8 năm 2018. Tuy nhiên, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành xác minh tại địa phương và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng đến nay không xác định được bị hại.

Trong vụ án này, đối với đối tượng Đinh Bạt G1, sinh năm 1998, trú tại thôn 6, xã T, huyện K, tỉnh Đắk Lắk đã cùng với bị can Nguyễn Khắc Q tham gia thực hiện 01 (Một) vụ trộm cắp chiếc xe máy của ông Y thuộc địa phận thôn 1, xã Ea Đrông, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. Tuy nhiên, qua xác minh thì Đinh Bạt G1 đã tử vong tại Bệnh viện Chợ Rẫy, thành phố Hồ Chí M vào ngày 25 tháng 03 năm 2018 do tràn khí màng phổi, đã đăng ký khai tử tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện K, tỉnh Đắk Lắk theo Giấy báo tử số 04/2018 ngày 30 tháng 03 năm 2018. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk không xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Đinh Bạt G1 là phù hợp.

Đối với bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1979, trú tại thôn T, xã EaTóh, huyện N, tỉnh Đắk Lắk, là người mua lại chiếc xe đạp điện hiệu Osakar màu đỏ đen trắng, số khung RMED250MHH12A01826. Quá trình điều tra xác định bà T không biết tài sản trên là tài sản do trộm cắp mà có. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk không đề cập đến trách nhiệm hình sự về hành vi Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là phù hợp. Đối với bà Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1997, trú tại thôn 1, xã T, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, là em ruột của bị cáo Nguyễn Ngọc G. Ngày 26 tháng 7 năm 2019, sau khi dọn dẹp nhà của chị H phát hiện 01 (Một) chiếc máy đo độ ẩm nông sản nhãn hiệu KETT loại PM-600-3, số Serial AA00283 màu trắng xanh, là vật chứng trong vụ án trộm cắp tài sản xảy ra ngày 20 tháng 04 năm 2018 của Công ty TNHH cà phê H, tại tổ dân phố T, thị trấn E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, sau đó đã tự nguyện đến giao nộp cho Cơ quan điều tra. Đối với ông Mai Văn L, sinh năm 1969, trú tại thôn T, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, là bố ruột của bị cáo Mai Mạnh V. Vào đầu năm 2018, bị cáo Mai Mạnh V đem về nhà cho em gái sử dụng 01 (Một) chiếc xe đạp điện màu đỏ đen nhãn hiệu EMOBIKE, số loại F1, trọng lượng 80kg, là vật chứng trong vụ án trộm cắp tài sản xảy ra ngày 02 tháng 02 năm 2018 tại nhà bà Vũ Thị N ở thôn 9, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Vào ngày 01 tháng 04 năm 2019, ông L đã giao nộp cho Cơ quan điều tra. Quá trình điều tra xác định ông L không biết tài sản trên là tài sản do trộm cắp mà có. Đối với ông H Thanh Q, sinh năm 1970, trú tại thôn Q, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, là bố ruột của bị cáo Hoàng Trung Đ. Vào ngày 01 tháng 04 năm 2019, tự nguyện giao nộp 01 (Một) chiếc tivi nhãn hiệu Samsung màn hình phẳng 32inch màu đen, Model LA32D450G1VXXV, là vật chứng trong vụ án trộm cắp tài sản xảy ra ngày 12 tháng 06 năm 2018 tại nhà ông Trần Văn K, trú tại B, xã E, huyện N, tỉnh Đắk Lắk. Sau khi trộm cắp tài sản thì Đ đem về nhà sử dụng cho đến khi giao nộp cho Cơ quan điều tra. Ông Q không biết tài sản trên là do Đ trộm cắp mà có. Đối với bà Lê Thị T, sinh năm 1975, trú tại thôn 6, xã E, huyện N, tỉnh Đắk Lắk là chủ đại lý thu mua nông sản X, là nơi bị can Nguyễn Ngọc G và các bị can khác bán nông sản (cà phê, hồ tiêu) sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Quá trình điều tra xác định bà Lê Thị T và những người trong gia đình làm việc tại đại lý thu mua nông sản X không biết được tài sản trên là tài sản do trộm cắp mà có. Đối với ông Nguyễn Phương, sinh năm 1975, trú tại thôn 15, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk là chủ dịch vụ cho thuê xe tự lái X, là nơi bị cáo Phạm Ngọc N và Hoàng Trung Đ thuê xe ôtô nhãn hiệu Innova loại 07 chỗ ngồi để làm phương tiện đi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Quá trình điều tra xác định ông Nguyễn Phương không biết được phương tiện mà ông cho bị cáo Đ và N thuê để đi trộm cắp tài sản. Đối với bà Lê Thị T, sinh năm 1987, trú tại thị xã B, tỉnh Đắk Lắk, là chủ dịch vụ cho thê xe tự lái T đã cho bị cáo Phạm Ngọc N thuê xe ôtô nhãn hiệu Huyndai Santafe loại 07 chỗ ngồi màu trắng, biển kiểm soát 47A-1xxx2 để làm phương tiện đi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Quá trình điều tra xác định bà T không biết được phương tiện mà bà cho bị cáo N thuê để đi trộm cắp tài sản. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra không đề đến trách nhiệm hình sự đối với những người nêu trên.

Đối với người đàn ông trú tại tỉnh Gia Lai, là người đã mua số gỗ sau khi Nguyễn Ngọc G và đồng bọn trộm cắp được tại nhà ông Phạm Văn N tại thôn Trung Hồ, xã E, huyện N, tỉnh Đắk Lắk, do không xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk tách ra để xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 91/CT-VKS-P2 ngày 03 tháng 12 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã truy tố các bị cáo Nguyễn Ngọc G, Hoàng Trung Đ, Mai Mạnh V, Phạm Ngọc N và Nguyễn Khắc Q về tội “Trộm cắp tài sản”, đối với các bị cáo Nguyễn Ngọc G, Hoàng Trung Đ, Mai Mạnh V, Phạm Ngọc N theo Khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự và bị cáo Nguyễn Khắc Q theo Khoản 3 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 02/2020/HSST ngày 02 - 01 - 2020, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Về phần tội danh và hình phạt:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Ngọc G, Phạm Ngọc N, Hoàng Trung Đ, Mai Mạnh V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ Khoản 4 Điều 173; điểm b khoản 1 Điều 51; điểm a, b, g khoản 1, khoản 2 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc G 15 (Mười lăm) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/10/2018;

- Căn cứ Khoản 4 Điều 173; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a, b, g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Hoàng Trung Đ 13 (Mười ba) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/10/2018;

- Căn cứ Khoản 4 Điều 173; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a, b, g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc N 13 (Mười ba) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/11/2018;

- Căn cứ Khoản 4 Điều 173; điểm b, s Khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a, b, g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Mai Mạnh V 12 (Mười hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/10/2018;

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần hình phạt đối với bị cáo khác trong vụ án, trách nhiệm dân sự , xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Trong thời hạn luật định, các bị cáo Nguyễn Ngọc G, Mai Mạnh V, Hoàng Trung Đ, Phạm Ngọc N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Trong các ngày 15/01/2020 và ngày 20/01/2020, người bị hại ông Ưng C, bà Vũ Thị N, ông Lê Văn N, Văn Đức L và ông Bùi Ngọc Đ kháng cáo xem xét tài sản bị thiệt hại và yêu cầu làm rõ hành vi tiêu thụ của đại lý thu mua nông sản T – T có tiêu thụ tài sản trộm cắp hay không.

Tại phiên toà Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và kháng cáo của những người bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư Trần Viết T bào chữa cho bị cáo Nguyễn Ngọc G thống nhất với tội danh mà cấp sơ thẩm xét xử đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

Luật sư Trần Thị Bích T bào chữa cho bị cáo Mai Mạnh V đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt vì bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ.

Luật sư Nguyễn Xuân P bào chữa cho bị cáo Hoàng Trung Đ và bị cáo H Ngọc N cho rằng Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo quá nặng, xem xét lại số tiền và số lần mà các bị cáo tham gia chiếm đoạt, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm cho các bị cáo một phần hình phạt.

Trong lời nói sau cùng, tất cả 4 bị cáo đều có lời xin lỗi gia đình các bị hại và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm cho các bị cáo một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, xem xét ý kiến của Luật sư, quan điểm của Viện kiểm sát, sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1]. Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và tội danh như cấp sơ thẩm xét xử là đúng, chỉ giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm hình phạt. Những người bị hại có kháng cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

[2]. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa , cơ bản là phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra. Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của các bị cáo tại phiên toà phúc thẩm có cơ sở để kết luận là trong khoản thời gian từ tháng 01/2018 đến tháng 10/2018 các bị cáo đã lén lút thực hiện 25 vụ trộm cắp tài sản của các hộ dân trên địa bàn huyện C, H, N và thị xã B với tổng số tài sản có giá trị là 927.368.000 đồng và một số loại tài sản khác do không thu hồi được nên không thể xác định giá trị. Trong 25 vụ thì bị cáo G tham gia thực hiện 23 vụ, số tài sản trộm cắp có giá trị là 899.868.000 đồng và bị cáo chiếm đoạt 278.093.000 đồng; bị cáo N tham gia 18 vụ, số tài sản trộm cắp là 681.964.000 đồng và bị cáo chiếm đoạt 174.241.000 đồng; bị cáo Đ tham gia 19 vụ, số tài sản trộm cắp có giá trị là 678.724.000 đồng và bị cáo chiếm đoạt 177.931.000 đồng; bị cáo V tham gia 11 vụ, số tài sản trộm cắp có giá trị là 529.059.000 đồng và bị cáo chiếm đoạt 174.560.750 đồng; bị cáo Q tham gia 16 vụ, số tài sản trộm cắp có giá trị là 436.199.000 đồng và bị cáo chiếm đoạt 117.792.000 đồng. Với hành vi phạm tội đó, Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản”, đối với Nguyễn Ngọc G, Hoàng Trung Đ, Mai Mạnh V, Phạm Ngọc N theo Khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo thấy: Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trên nhiều địa bàn, dùng phương tiện là ô tô để chuyên chở tài sản trộm cắp, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của nhiều người, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần, có tổ chức, liều lĩnh, táo bạo với quyết tâm cao, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp và tài sản chiếm đoạt rất lớn, số tiền hưởng lợi lớn. Các bị cáo phải chịu ba tình tiết tăng nặng: Phạm tội có tổ chức, Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp và phạm tội hai lần trở lên. Khi xét xử sơ thẩm Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, đầu thú ( đối với bị cáo N), tác động gia đình khắc phục một phần hậu quả. Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo G 15 năm tù, bị cáo Đ 13 năm 06 tháng tù, bị cáo N 13 năm 06 tháng tù, bị cáo V 12 năm 06 tháng tù là thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật. Mặc dù trong giai đoạn phúc thẩm có một số đơn bãi nại của bị hại: Phạm Văn N, Phan Hồng H, Huỳnh Văn Đ, Nguyễn C, Hồ Thanh H xin bải nại, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo nhưng xét tính chất hành vi, hậu quả và yêu cầu đấu tranh tội phạm trong giai đoạn hiện nay nên Hội đồng xét xử thấy Toà án cấp sơ thẩm xét xử đối với các bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật nên không thể chấp nhận yêu cầu kháng cáo và các đề nghị của các bị hại, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4]. Xét kháng cáo của các bị hại về đề nghị xem xét lại phần bồi thường và xem xét trách nhiệm của bà Lê Thị T- chủ cơ sở thu mua cà phê “ T –T” về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Thấy rằng: Về xác định tài sản bị các bị cáo chiếm đoạt, ông Văn Đức L khai bị mất 40 bao cà phê nhân xô, trọng lượng khoảng 3.000 kg, trị giá khoảng 120.000.000 đồng. Cơ quan điều tra chỉ có căn cứ kết luận các bị cáo Đ , G, N, V chỉ chiếm đoạt 28 bao, theo kết luận định giá có tổng khối lượng khoảng 1.960.000 kg, giá trị: 72.520.000 đồng. Ông Lê Văn N khai bị mất 29 bao cà phê nhân, khoảng 2.000 kg. Cơ quan điều tra chỉ có căn cứ kết luận các bị cáo G, Đ, N, V chỉ trộm 18 bao, theo kết luận định giá tài sản có trọng lượng khoảng 1.260 kg, trị giá: 46.620.000 đồng. Bà Vũ Thị N khai tài sản bị mất gồm 16 bao cà phê nhân và một xe đạp điện. Cơ quan điều tra chỉ xác định được các bị cáo trộm 12 bao cà phê nhân vả một xe đạp điện. Ông Ưng C khai tài sản bị mất 16 bao hồ tiêu khô, trọng lượng khoảng 1.000 kg. Cơ quan điều tra chỉ có căn cứ kết luận các bị cáo chỉ trộm 09 bao hạt tiêu khô, trọng lương khoảng 495 kg, theo kết luận định gia sản trị giá 28.215.000 đồng. Trong vụ án các bị hại khai báo tài sản bị mất chỉ dựa trên lời khai ngoài ra không cung cấp được chứng cứ tài liệu gì cho lời khai của mình, cơ quan điều tra căn cứ vào lời khai cáo bị cáo, lời khai của những người liên quan và đã tiến hành cho đối chất ( trừ ông Ưng C, trong hồ sơ không có tài liệu đối chất); kết luận giám định trong tố tụng hình sự để làm căn cứ quy kết. Riêng ông Ưng C tại biên bản ghi lời khái ngày 20/3/2018 (BL 598), khai: “ tài s ản bị mất là số tiêu nhân khô đựng trong khoảng 15-16 bao xác rắn màu xanh ( tôi không nhớ chính xác là bao nhiêu bao”. Do đó, căn cứ vào kết quả điều tra thu thập được có trong hồ sơ, Toà án cấp sơ thẩm đã xử là có căn cứ, đúng pháp luật.

Về đề nghị xem xét hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đối với bà Lê Thị T, thấy rằng: Bà T là chủ đại lý thu mua nông sản “ T – T” là nơi bị cáo Nguyễn Ngọc G bán nông sản ( cà phê, hồ tiêu) sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Quá trình điều tra xác định bà Lê Thị T không biết được tài sản trên là tài sản do trộm cắp mà có và tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Nguyễn Ngọc G khẳng định khi bán tài sản cho bà T đã không nói là do trộm cắp nên bà T không thể biết được tài sản các bị cáo trộm cắp đem bán. Do đó, các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm không có căn cứ để xử lý trách nhiệm của bà Lê Thị T về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là phù hợp. Kháng cáo của các bị hại về hai nội dung như đã phân tích trên không có cơ sở nên không được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận. Tuy nhiên những người bị hại nếu có chứng cứ về hành vi tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có của đại lý T – T thì làm đơn tố cáo gửi cơ quan Công an và Viện kiểm sát ( nơi bị hại cư trú) để được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

Từ những vấn đề phân tích và lập luận trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng kháng cáo của các bị cáo, kháng cáo của các bị hại không có cơ sở nên không được chấp nhận. Quan điểm của Viện kiểm sát về không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, kháng cáo của bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm, phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử phúc thẩm nên được chấp nhận, bác toàn bộ kháng cáo của các bị cáo, kháng cáo của các bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết 326/NQ-UBTVQHK14 về án phí, lệ phí Toà án.

Các quyết dịnh khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị (phần hình sự đối với bị cáo không kháng cáo, phần xử lý vật chứng, về án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm) có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo: Nguyễn Ngọc G, Hoàng Trung Đ, Phạm Ngọc N, Mai Mạnh V và kháng cáo của các bị hại : Ông Ưng C, bà Vũ Thị N, ông Lê Văn N, ông Văn Đức L và ông Bùi Ngọc Đ, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Căn cứ Khoản 4 Điều 173; điểm b khoản 1 Điều 51; điểm a, b, g khoản 1, khoản 2 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc G 15 (Mười lăm) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/10/2018;

- Căn cứ Khoản 4 Điều 173; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a, b, g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Hoàng Trung Đ 13 (Mười ba) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/10/2018;

- Căn cứ Khoản 4 Điều 173; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a, b, g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc N 13 (Mười ba) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/11/2018;

- Căn cứ Khoản 4 Điều 173; điểm b, s Khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a, b, g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Mai Mạnh V 12 (Mười hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/10/2018;

Các bị cáo đều bị xét xử về tội “ Trộm cắp tài sản”.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 46, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 589 Bộ luật dân sự;

- Vụ thứ 1: Buộc các bị cáo Nguyễn Ngọc G, Hoàng Trung Đ, Phạm Ngọc N, Mai Mạnh V phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho ông Văn Đức L 72.520.000 đồng, chia theo phần cụ thể là mỗi bị cáo phải bồi thường cho ông V Đ L 18.130.000 đồng;

- Vụ thứ 2: Buộc các bị cáo Nguyễn Ngọc G, Hoàng Trung Đ, Phạm Ngọc N và Mai Mạnh V phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho ông Lê Văn N 46.620.000 đồng, chia theo phần cụ thể là mỗi bị cáo phải bồi thường cho ông Lê Văn N 11.655.000 đồng;

- Vụ thứ 3: Buộc các bị cáo Nguyễn Ngọc G, Nguyễn Khắc Q, Mai Mạnh V và Hoàng Trung Đ phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho bà Vũ Thị N 22.260.000, chia theo phần cụ thể là mỗi bị cáo phải bồi thường cho bà Vũ Thị N 5.565.000 đồng;

- Vụ thứ 4: Buộc các bị cáo Nguyễn Khắc Q, Nguyễn Ngọc G, Phạm Ngọc N và Hoàng Trung Đ phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho ông Trần Trung T 74.200.000 đồng, chia theo phần cụ thể là mỗi bị cáo phải bồi thường cho ông Trần Trung T 18.550.000 đồng;

- Vụ thứ 6: Chấp nhận việc các gia đình bị cáo Phạm Ngọc N, Hoàng Trung Đ, Nguyễn Ngọc G và Nguyễn Khắc Q đã tự nguyên bồi thường xong cho ông H Văn Đ;

- Vụ thứ 7: Buộc các bị cáo Mai Mạnh V, Nguyễn Ngọc G và Nguyễn Khắc Q phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho ông Lê Văn H 9.120.000 đồng, chia theo phần cụ thể là mỗi bị cáo phải bồi thường cho ông Lê Văn H 3.040.000 đồng;

- Vụ thứ 8: Buộc các bị cáo Mai Mạnh V, Nguyễn Ngọc G và Nguyễn Khắc Q phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho bà Vũ Thị H 7.410.000 đồng, chia theo phần cụ thể là mỗi bị cáo phải bồi thường cho bà Vũ Thị H 2.470.000 đồng;

- Vụ thứ 9: Buộc các bị cáo Phạm Ngọc N, Hoàng Trung Đ, Nguyễn Ngọc G và Mai Mạnh V phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho ông Ưng C 28.215.000 đồng, chia theo phần cụ thể là mỗi bị cáo phải bồi thường cho ông Ưng C 7.053.750 đồng;

- Vụ thứ 10: Buộc các bị cáo Phạm Ngọc N, Hoàng Trung Đ, Nguyễn Ngọc G và Nguyễn Khắc Q phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho bà Nguyễn Thị Thanh T 25.650.000 đồng, chia theo phần cụ thể là mỗi bị cáo phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị Thanh T là 6.412.500 đồng;

- Vụ thứ 11: Buộc các bị cáo Phạm Ngọc N, Hoàng Trung Đ, Nguyễn Ngọc G và Mai Mạnh V phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho ông Phan Hồng H 45.864.000 đồng, chia theo phần cụ thể là mỗi bị cáo phải bồi thường cho ông Phan Hồng H 11.466.000 đồng;

- Vụ thứ 12: Buộc các bị cáo Phạm Ngọc N, Hoàng Trung Đ, Nguyễn Ngọc G và Nguyễn Khắc Q phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho ông Bùi Văn C 50.000.000 đồng, chia theo phần cụ thể là mỗi bị cáo phải bồi thường cho ông Bùi Văn C 12.500.000 đồng;

- Vụ thứ 13: Buộc các bị cáo Phạm Ngọc N, Hoàng Trung Đ, Nguyễn Ngọc G và Nguyễn Khắc Q phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho ông Bùi Ngọc Đ 21.175.000 đồng, chia theo phần cụ thể là mỗi bị cáo phải bồi thường cho ông Bùi Ngọc Đ 5.295.750 đồng;

- Vụ thứ 14: Buộc các bị cáo Phạm Ngọc N, Nguyễn Ngọc G và Nguyễn Khắc Q phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho cho Công ty TNHH cà phê H mà người đại diện của Công ty là ông Nguyễn Văn Bình 19.xxx.000 đồng, chia theo phần cụ thể là mỗi bị cáo phải bồi thường cho Công ty TNHH cà phê H 6.361.300 đồng;

- Vụ thứ 15: Buộc các bị cáo Phạm Ngọc N, Nguyễn Ngọc G, Hoàng Trung Đ và Mai Mạnh V phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho bà Dương Thị N 57.420.000 đồng, chia theo phần cụ thể là mỗi bị cáo phải bồi thường cho bà Dương Thị N 14.355.000 đồng;

- Vụ thứ 16: Buộc các bị cáo Phạm Ngọc N, Nguyễn Ngọc G, Hoàng Trung Đ và Mai Mạnh V phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho ông Nguyễn C 12.320.000 đồng, chia theo phần cụ thể là mỗi bị cáo phải bồi thường cho ông Nguyễn C 3.080.000 đồng;

-Vụ thứ 17: Buộc các bị cáo Phạm Ngọc N, Nguyễn Ngọc G và Hoàng Trung Đ phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho ông Trần Văn K 42.000.000 đồng, chia theo phần cụ thể là mỗi bị cáo phải bồi thường cho ông Trần Văn K 14.000.000 đồng;

- Vụ thứ 19: : Buộc các bị cáo Phạm Ngọc N, Nguyễn Ngọc G, Hoàng Trung Đ và Nguyễn Khắc Q phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho ông Vũ Q T 11.400.000 đồng, chia theo phần cụ thể là mỗi bị cáo phải bồi thường cho ông Vũ Q T 2.850.000 đồng;

-Vụ thứ 20: Buộc các bị cáo Hoàng Trung Đ và Nguyễn Khắc Q phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho bà Nguyễn Thị Thanh H 18.000.000 đồng, chia theo phần cụ thể là mỗi bị cáo phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị Thanh H 9.000.000 đồng;

- Vụ thứ 22: Buộc các bị cáo Nguyễn Ngọc G, Hoàng Trung Đ, Phạm Ngọc N và Nguyễn Khắc Q phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho bà Mai Thị H Y 21.600.000 đồng, chia theo phần cụ thể là mỗi bị cáo phải bồi thường cho bà Mai Thị H Y 5.400.000 đồng;

- Vụ thứ 24: Buộc các bị cáo Nguyễn Ngọc G, Phạm Ngọc N, Mai Mạnh V và Nguyễn Khắc Q phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho ông Phạm Văn N 01 máy cưa lốc hiệu màu đỏ trắng nhãn hiệu Ractông có giá trị 500.000 đồng, chia theo phần cụ thể là mỗi bị cáo phải bồi thường cho Phan Văn N 125.000 đồng;

- Vụ thứ 25: Buộc các bị cáo Nguyễn Ngọc G, Phạm Ngọc N, Hoàng Trung Đ và Nguyễn Khắc Q phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho ông Hồ Thanh H 49.680.000 đồng, được khấu trừ 20.000.000 đồng các gia đình của các bị cáo đã bồi thường trước, số còn lại là 29.680.000 buộc các bị cáo tiếp tục liên đới bồi thường cho ông Hồ Thanh H, chia theo phần cụ thể là mỗi bị cáo phải bồi thường cho ông Hồ Thanh H 7.420.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự.

3. T tục tạm giữ số tiền 80.600.000 đồng do gia đình các bị cáo nộp để khắc phục hậu quả và số tiền tạm giữ của các bị cáo để đảm bảo công tác thi hành án, cụ thể: Số tiền của bị cáo Mai Mạnh V 4.600.000 đồng; bị cáo Hoàng Trung Đ 6.000.000 đồng, bị cáo Phạm Ngọc N 35.000.000 đồng; ông H Thanh Q là bố của bị cáo Đ nộp 6.000.000 đồng (Nộp thay cho bị cáo Đ để bồi thường); ông Mai Văn L bố của bị cáo Mai Mạnh V nộp 10.000.000 đồng (Nộp thay cho bị cáo V để bồi thường); bà Nguyễn Thị Hồng là mẹ của bị cáo Nguyễn Khắc Q nộp 9.000.000 đồng (Nộp thay cho bị cáo Q để bồi thường)và bà Nguyễn Thị Thanh H là em ruột của bị cáo Nguyễn Ngọc G nộp (Nộp thay cho bị cáo G để bồi thường) 10.000.000 đồng (Có biên lai thu tiền số 0000332 ngày 06/12/2019 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Các bị cáo Nguyễn Ngọc G, Phạm Ngọc N, Hoàng Trung Đ, Mai Mạnh V, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 114/2020/HS-PT

Số hiệu:114/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về