Bản án về tội trộm cắp tài sản số 09/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG NGUYÊN, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 09/2022/HS-ST NGÀY 29/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 3 năm 2022, tại: Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 07/2022/TLST-HS ngày 26 tháng 01 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 06/2022/HSST-QĐ ngày 11/3/2022 đối với bị cáo:

Lê Hồng T, tên gọi khác: không; sinh ngày: 20 tháng 02 năm 2000, tại huyện HN, tỉnh NA; nơi cư trú: Xóm X, xã HP, huyện HN, tỉnh NA; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 06/12; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Hồng D; con bà: Trần Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 11/4/2018 bị Công an huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An xử phạt hành chính 1.000.000đ về hành vi: “Xâm hại đến sức khỏe của người khác” (Quyết định số 135/QĐ-XPVPHC) – Do Công an huyện Hưng Nguyên chưa tiến hành tống đạt hoặc niêm yết công khai quyết định xử phạt hành cho này cho T tính đến thời điểm phạm tội thì quyết định xử phạt này hết thời hiệu thi hành. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/10/2021 đến ngày 05/01/2022 được tại ngoại cho đến nay. Có mặt.

- Người bị hại:

Bà Nguyễn Thị T; sinh năm 1962; nơi cư trú: Xóm X, xã HP, huyện HN, tỉnh NA. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 25/9/2021, T đang ở nhà thấy vợ chồng bà Nguyễn Thị T (người cùng xóm) đi lễ tại nhà thờ. Biết không có ai ở nhà nên T đi bộ từ nhà mình đến nhà bà T với mục đích trộm cắp tài sản. Khi đến nơi thấy cổng mở, T đi vào sân thấy cửa chính của ngôi nhà khóa, cửa phụ mở. T đi vào cửa phụ, đi qua gian nhà chính để vào phòng ngủ. Tại phòng ngủ T thấy có một chiếc tủ đựng quần áo màu nâu, cao khoảng hơn 02m. Tủ thiết kế chia làm ba phần (02 phần dưới dạng ngăn kéo, phần trên thiết kế có hai cánh cửa đóng lại và được khóa bằng dây xích xe đạp và ổ khóa loại Việt Tiệp). T dùng tay giật mạnh phần tay nắm cửa bên trái tủ (hướng từ cửa nhìn vào) làm cho chiếc ốc vít phía dưới tay nắm cửa bên trái bung ra. T luồn sợi dây xích ra rồi mở tủ kiểm tra thì phát hiện ở góc tủ có một túi ni lông màu đỏ. Tiếp tục mở túi ni lông thấy trong túi có hai hộp hình tròn màu đỏ, một hộp hình vuông màu trắng. Mở nắp hộp màu trắng thấy có một chiếc lắc tay bằng vàng loại 24K, mở nắp 01 hộp màu đỏ thấy có một sợi dây chuyền bằng vàng loại 24K (Hộp màu đỏ còn lại T không mở). T lấy chiếc lắc tay và sợi dây chuyền cất vào túi quần đang mặc sau đó T cất các hộp vào túi ni lông đỏ rồi bỏ chúng lại vị trí cũ. Sau đó T đi ra ngoài theo lối cũ để về nhà.

Đến khoảng 09 giờ ngày 26/9/2021, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu PIAGIO loại Lyberty màu sơn trắng BKS: 37B2- 545.95 (Xe của ông Lê Hồng Dương bố đẻ của T) mang số vàng trộm được đến một cửa hàng vàng bạc tại đường Nguyễn Phong Sắc, T phố Vinh (Gần bệnh viện Cửa Đông) bán sợi dây chuyền loại 24K có khối lượng 03 chỉ với giá 14.700.000đ. T cất tiền rồi đi đến một tiệm game thuộc khối 2, phường Vinh Tân, T phố Vinh để đánh bạc qua mạng. Cách thức đánh bạc như sau: T mua thẻ điện thoại sau đó nộp tiền vào thẻ ứng dụng game Loc89.cub rồi đăng nhập tài khoản để chơi trò chơi đánh bạc qua mạng trực tuyến. T sử dụng số tiền 10.000.000đ để chơi và đã bị thua hết. Đến 14 giờ cùng ngày, T tiếp tục đi đến một cửa hàng vàng bạc khác trên đường Nguyễn Phong Sắc để bán nốt chiếc lắc tay loại 24K có khối lượng 04 chỉ với giá 20.000.000đ. Sau khi bán chiếc lắc thì T tiếp tục đến quán game ở khối 2, phường Vinh Tân, T phố Vinh đánh bạc qua mạng và đã thua hết số tiền 20.000.000đ. Số tiền còn lại là 4.700.000đ sau đó T cũng tiêu xài cá nhân hết.

Đến ngày 06/10/2021, T tiếp tục đột nhập nhà bà Nguyễn Thị T, lấy trộm 1.500.000đ trong túi áo da đen để trong tủ quần áo. Số tiền này sau đó T cũng tiêu xài cá nhân hết.

Đến ngày 08/10/2021, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của mình là sai trái và vi phạm pháp luật nên T đã đến Công an huyện Hưng Nguyên đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp của mình.

Ngày 08/10/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Hưng Nguyên đã tiến hành khám nghiệm hiện trường tại nhà bà Nguyễn Thị T, trú tại xóm 5, xã Hưng Phúc, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Qua khám nghiệm Cơ quan điều tra đã thu giữ các đồ vật sau: 02 hộp nhựa hình trụ, đường kính 08cm, trên mỗi hộp có nhiều chữ màu vàng trong đó có chữ T Vinh Ngọc đã qua sử dụng; 01 khối hình hộp chất liệu gỗ ép có kích thước (9x9x3,7) cm mặt trên có hàng chữ màu vàng katy 1985; 01 túi ni lông màu đỏ; 01 sợi dây xích xe đạp dài 33cm; 01 ổ khóa Việt Tiệp màu vàng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 09/KL-HĐĐGTS ngày 15/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hưng Nguyên kết luận: 01 sợi dây chuyền bằng vàng loại 24K có khối lượng 03 chỉ có giá trị tại thời điểm định giá là 14.400.000đ; 01 lắc tay bằng vàng loại 24 K có khối lượng 04 chỉ có giá trị tại thời điểm định giá là 19.200.000đ. Tổng giá trị là 33.600.000đ.

Cáo trạng số 11/CT-VKS-HS ngày 24/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Lê Hồng T về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa Lê Hồng T đã khai nhận hành vi mà bị cáo T thực hiện vào tháng 9/2021 giống như nội dung bản cáo trạng và nội dung vụ án như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015: Tuyên bố bị cáo Lê Hồng T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt: Bị cáo Lê Hồng T từ 09 đến 12 tháng tù. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy: 01 túi ni lông màu đỏ; 02 hộp nhựa hình trụ tròn màu đỏ; 01 khối hình hộp chất liệu gỗ ép; 01 sợi dây xích (dạng xe đạp) và 01 ổ khóa nhãn hiệu Việt Tiệp màu vàng. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng Điều tra viên Công an huyện Hưng Nguyên, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Nguyên: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, hành vi và quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên là hợp pháp.

[2]. Về chứng cứ xác định tội danh:

Hội đồng xét xử xét thấy: Lời khai tại phiên tòa và lời khai trong quá trình điều tra của bị cáo là thống nhất với nhau, phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Có đủ cơ sở để kết luận: Lợi dụng gia đình bà Nguyễn Thị T không có ai ở nhà nên vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 25/9/2021 bị cáo Lê Hồng T đã đột nhập vào nhà bà T (Địa chỉ: Xóm 5, xã Hưng Phúc, huyện Hưng Nguyên) lấy trộm của bà T 01 sợi dây chuyền vàng loại 24K có khối lượng 03 chỉ và 01 lắc vàng loại 24K có khối lượng 04 chỉ.

Căn cứ vào bản kết luận định giá tài sản số 09/KLĐG-TTHS ngày 15/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hưng Nguyên thì: 01 sợi dây chuyền vàng loại 24K có khối lượng 03 chỉ có giá trị là 14.400.000đ; 01 lắc tay bằng vàng loại 24K có khối lượng 04 chỉ có giá trị là 19.200.000đ. Tổng 33.600.000đ.

Căn cứ vào bản kết luận giám định tâm thần số 70/KLGĐ ngày 31/12/2021 của Phân Viện Pháp y tâm thần Bắc Miền Trung kết luận: Tại thời điểm trước, trong, sau khi thực hiện hành vi phạm tội và tại thời điểm giám định Lê Hồng T bị bệnh: Rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm (giai đoạn bệnh thuyên giảm), theo phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 năm 1992 (ICD 10) có mã bệnh là F41.2. Tại các thời điểm nêu trên, Lê Hồng T đủ khả năng nhận thức và điểu khiển hành vi.

Nên hành vi của bị cáo đã có đầy đủ yếu tố cấu T tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Đây là vụ án xâm phạm quyền sỡ hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sỡ hữu để chiếm đoạt tài sản có tổng giá trị là 33.600.000đ (Ba mươi ba triệu, sáu trăm nghìn đồng). Hành vi này là nguy hiểm cho xã hội nên cần xử lý nghiêm bị cáo nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai báo T khẩn, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội đã ra đầu thú; đã tác động gia đình bồi thường đầy đủ thiệt hại cho người bị hại; người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Nên bị cáo sẽ được hưởng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xét thấy: Bị cáo có nhân thân xấu nên cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ điều kiện giáo dục và cải tạo bị cáo. Tuy nhiên, do bị cáo là người đang mang bệnh về thần kinh (Bệnh rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm), lại có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS (Trong đó có 03 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 và 02 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS) nên cần áp dụng khoản 3 Điều 54 BLHS để xử bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cũng đủ điều kiện giáo dục và cải tạo bị cáo.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản.

Nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (là hình phạt tiền) đối với bị cáo.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại bà Nguyễn Thị T đã được gia đình bị cáo bồi thường toàn bộ số tiền và vàng bị mất gồm 07 chỉ vàng loại 24K và 1.500.000 đồng. Bà T không yêu cầu gì thêm nên Tòa miễn xét.

[6]. Về vật chứng: Trong quá trình điều tra Cơ quan CSĐT đã thu giữ: 01 túi ni lông màu đỏ; 02 hộp nhựa hình trụ tròn màu đỏ; 01 khối hình hộp chất liệu gỗ ép; 01 sợi dây xích (dạng xe đạp) và 01 ổ khóa nhãn hiệu Việt Tiệp màu vàng.

Hội đồng xét xử xét thấy: Tất cả các vật chứng trên là tài sản của người bị hại, đều không có giá trị và không sử dụng được. Người bị hại từ chối nhận lại và không yêu cầu gì thêm. Nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

[7]. Đối với hành vi lấy trộm 1.500.000đ của bà Nguyễn Thị T. Do bị cáo chưa bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản cũng như chưa từng bị kết án lần nào và giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt chưa đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội: “Trộm cắp tài sản” nên cơ quan CSĐT không khởi tố, VKSND huyện Hưng Nguyên không truy tố bị cáo về hành vi này và Tòa án cũng không xét xử bị cáo về hành vi này mà chỉ xem xét thêm về nhân thân của bị cáo khi lượng hình phạt.

Đối với hai cửa hàng vàng bạc đã mua toàn bộ số vàng mà bị cáo chiếm đoạt (theo bị cáo khai địa chỉ của 02 cửa hàng này ở đường Nguyễn Phong Sắc, T phố Vinh). Quá trình điều tra do không xác định được địa chỉ của các cửa hàng này nên không có căn cứ để xử lý đối với người mua vàng.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 3 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Lê Hồng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Hồng T 04 (Bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án nhưng bị cáo được trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/10/2021 đến ngày 05/01/2022.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy: 01 túi ni lông màu đỏ; 02 hộp nhựa hình trụ tròn màu đỏ; 01 khối hình hộp chất liệu gỗ ép; 01 sợi dây xích (dạng xe đạp) và 01 ổ khóa nhãn hiệu Việt Tiệp màu vàng.

(Đặc điểm chi tiết theo biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng lập ngày 25/01/2022 giữa Công an huyện Hưng Nguyên với Chi cục thi hành án dân sự huyện Hưng Nguyên)

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo Lê Hồng T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo và người bị hại đều có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 09/2022/HS-ST

Số hiệu:09/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Nguyên - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về