Bản án về tội trộm cắp tài sản số 08/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN BẮC - TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 08/2022/HS-ST NGÀY 10/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 5 năm 2022, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 07/2022/HSST ngày 06/4/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2022/QĐST-HS ngày 25/4/2022, đối với các bị cáo:

1. PH M T, sinh năm 1988, tại tỉnh Khánh Hoà. Nơi cư trú: Tổ dân phố L H, phường C L, Thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hóa: 8/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Ph K, sinh năm: 1947 và bà B Th Th (đã chết). Vợ tên Ng Đ M H, sinh năm 1990. (đã ly hôn). Có 01 người con sinh năm 2011. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 17/4/2009, bị Tòa án nhân dân thị xã Cam Ranh (nay là thành phố Cam Ranh) xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Đã được xóa án tích. Ngày 24/01/2011, bị Công an thành phố Cam Ranh, Khánh Hòa xử phạt hành chính về hành vi “Gây rối trật tự công cộng có mang theo vũ khí thô sơ” với số tiền 1.500.000 đồng. Đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Ngày 20/02/2020 bị Công an phường Cam Thuận, thành phố Cam Ranh, Khánh Hòa xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Ngày 05/5/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh, Khánh Hòa áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 01 năm 08 tháng. Chưa hết thời hạn được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Ngày 27/01/2022, bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa khởi tố về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo hiện bị bắt tạm giữ ngày 25/12/2021, chuyển tạm giam từ ngày 29/12/2021. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Thuận Bắc. Có mặt

2. NG H K, sinh năm 1982, tại tỉnh Khánh Hoà. Nơi cư trú: Tổ dân phố L Th, phường C L, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa. Nghề nghiệp: Lao động tư do.

Trình độ học vấn: 9/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Ng H V, sinh năm 1962 và bà Đ Th Qu, sinh năm 1963. Vợ tên H Th M Th, sinh năm 1994. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 12/6/2003, bị Tòa án nhân dân Thị xã Cam Ranh (nay là thành phố Cam Ranh), tỉnh Khánh Hòa xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Đã xóa án tích. Ngày 28/10/2005, bị Tòa án nhân dân thị xã Cam Ranh (nay là thành phố Cam Ranh), tỉnh Khánh Hòa xử phạt 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Đã xóa án tích. Ngày 02/7/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh, Khánh Hòa áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 15 tháng. Chưa hết thời hạn được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Bị bắt tạm giam từ ngày 31/12/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Thuận Bắc. Có mặt

- Người bị hại:

1. Ông T A V, sinh năm 1987. Nơi cư trú: Thôn H K, xã C H, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận. Có mặt.

2. Ông Ng V C, sinh năm: 1969. Nơi cư trú: thôn H K, xã C H, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận. Có đơn xin xét xử vắng mặt

- Người làm chứng: Ông C V M, sinh năm 1973. Nơi cư trú: Thôn H D 2, xã C Ph B, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hoà. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 22/12/2021, trong lúc đi ăn tối tại phường Cam Phú, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa, Ph M T có gặp và nhờ Ng H K dùng xe mô tô chở vào nhà cha mình tại huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận. K đồng ý rồi dùng xe mô tô kiểu Dream, đầu xe kiểu Wave (không nhớ biển số, xe này K mượn của người bạn tên Cu ở thành phố Nha Trang) điều khiển xe chở T chạy từ Thành phố Cam Ranh theo đường Quốc lộ 1A đi vào huyện Thuận Bắc. Khi vào đến nơi thì nhà của cha T đóng cửa nên K điều khiển xe mô tô chở T đến nhà người bạn tại thôn Kà Rôm, xã Công Hải, huyện Thuận Bắc chơi. Khi đến thôn Kà Rôm, xã Công Hải do trời đã khuya, K không tìm được nhà người bạn nên điều khiển xe chở T về lại thành phố Cam Ranh. Khoảng 01 giờ ngày 23/12/2021, trên đường điều khiển xe chở T từ đường liên xã Công Hải đi Phước Chiến thuộc thôn Kà Rôm, xã Công Hải đi ra đường Quốc lộ 1A để về thành phố Cam Ranh thì T nhìn thấy có 01 xe kéo hai bánh tự chế, khung làm bằng sắt của ông T A V đang để bên lề đường bên phải không có người trông coi, T nói với K “Có chiếc bò lạc, lấy về mà xài” và K nói “Ờ, kéo về”. K điều khiển xe mô tô chở T ngồi sau cầm đầu xe kéo tự chế và kéo chạy ra đường Quốc lộ 1A rồi chạy về hướng thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa. Chạy được một đoạn, T nói với K nhà hàng bên trái đường (nhà hàng tiệc cưới của ông Ng V C) có cặp lục bình đẹp nên nói K vào lấy trộm. T và K trèo qua cửa sổ phía Nam của nhà hàng rồi vào bên trong lấy 01 lục bình bằng gỗ cao 1,6m, 02 bình gas loại 12kg, 01 quạt treo tường và 01 bàn phím máy tính rồi đem ra để lên khung xe kéo tự chế rồi thay phiên nhau điều khiển xe mô tô kéo chạy về phòng trọ của Tâm ở phường Cam Phú, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa. Khi về đến nơi, K lấy 02 bình gas, quạt treo tường và bàn phím máy tính còn lục bình bằng gỗ và xe kéo tự chế để lại cho T. Trên đường đi về nhà tại phường Cam Lợi, thành phố Cam Ranh thấy có người mua phế liệu (không rõ lai lịch) dọc đường nên K đã bán 02 bình gas, quạt treo tường và bàn phím máy tính được số tiền 312.000 đồng, số tiền này K đã tiêu xài hết. Khoảng 20 giờ ngày 23/12/2021, T mượn xe mô tô kiểu Wave (không nhớ biển số) của L Tr Ng Kh (bạn T) kéo xe kéo tự chế và lục bình bằng gỗ đến bán cho ông C V M trú tại phường Cam Phúc Bắc, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa, nhưng ông M không mua, T nói ông M cho mượn tiền và để lại xe kéo tự chế cùng lục bình bằng gỗ để làm tin và ngày 24/12/2021 sẽ đem tiền đến trả và lấy lại các tài sản này và ông M đã đồng ý cho T mượn 1.300.000 đồng, số tiền này T đã tiêu xài hết. Đến ngày 25/12/2021, Cơ quan điều tra Công an huyện đã truy tìm được T và thu giữ được các tài sản trộm cắp tại nhà ông C V M.

Ngày 29/12/2021 và ngày 10/02/2022, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự kết luận 01 xe kéo tự chế làm bằng khung sắt giá trị 1.080.000 đồng, 01 lục bình bằng gỗ cao 160cm giá trị 28.000.000 đồng, 02 bình gas giá trị 234.000 đồng, 01 quạt điện treo tường giá trị 385.000 đồng và 01 bàn phím máy vi tính giá trị 320.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà các bị cáo trộm cắp của bị hại Ng V C là 28.939.000 đồng và trộm cắp của ông T A V là 1.080.000 đồng.

Tại Cáo trạng số: 08/CT-VKSTB ngày 04/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Bắc đã truy tố P M T, Ng H K về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận rạng sáng 23/12/2021 đã lén lút lấy trộm 01 lục bình bằng gỗ, 02 bình gas, 01 quạt điện treo tường và 01 bàn phím máy tính của ông Ng V C tại thôn H K, xã C H, huyện Thuận Bắc. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 28.939.000 đồng. Ngoài ra, các bị cáo còn lấy trộm 01 xe kéo tự chế làm bằng khung sắt giá trị 1.080.000 đồng của ông T A V tại thôn H K, xã C H, huyện Thuận Bắc.

Người bị hại ông T A V trình bày: Ông xác nhận vào ngày 23/12/2021 bị mất tài sản là 01 xe kéo hai bánh tự chế. Sau đó cơ quan điều tra đã tìm thấy và trả lại cho ông. Ông đã nhận lại tài sản bị mất nên không có yêu cầu bồi thường gì. Tại phiên toà ông xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.

Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát vẫn giữ nguyên Cáo trạng truy tố đối với các bị cáo về tội danh như trên và đề nghị HĐXX:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 của BLHS.

- Xử phạt bị cáo Ph M T từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 của BLHS.

- Xử phạt Ng H K từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị HĐXX quyết định về các Biện pháp tư pháp, án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

Các bị cáo nói lời nói sau cùng có nội dung cụ thể như sau: “Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, rất hối hận và mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức hình phạt cho các bị cáo”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Bắc, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Bắc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận rạng sáng 23/12/2021 đã lén lút lấy trộm 01 lục bình bằng gỗ, 02 bình gas, 01 quạt điện treo tường và 01 bàn phím máy tính của ông Ng V C với tổng giá trị tài sản là 28.939.000 đồng. Ngoài ra, các bị cáo khai còn lấy trộm 01 xe kéo tự chế làm bằng khung sắt của ông T A V giá trị 1.080.000 đồng. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy, khẳng định cáo trạng 08/CT-VKSTB ngày 04/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Bắc đã truy tố P M T, Ng H K về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của BLHS là có cơ sở, đúng pháp luật.

[3]. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Các bị cáo biết rõ hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Các bị cáo đã phạm tội Trộm cắp tài sản. Tội và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của BLHS. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo nói riêng đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung. Đây là vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, cần đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo để ra mức hình phạt phù hợp quy định pháp luật:

[4]. Đối với Ph M T: Bị cáo là người khởi xướng và cùng với bị cáo K thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Sau khi chiếm đoạt được thì bị cáo là người giữ phần lớn tài sản có giá trị. Bị cáo là người có nhân thân xấu. Bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tại phiên toà bị hại xin giảm nhẹ cho bị cáo. Do bị cáo tham gia trong vụ án với vai trò chủ yếu nên mức hình phạt của bị cáo phải cao hơn so với bị cáo K.

[5]. Đối với bị cáo Ng H K: Bị cáo tham gia thực hiện hành vi trộm cắp tài sản cùng với bị cáo T. Bị cáo là người có nhân thân xấu. Bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là bồi thường, khắc phục hậu quả, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tại phiên toà bị hại xin giảm nhẹ cho bị cáo. Do vai trò của bị cáo trong vụ án này hạn chế hơn so với bị cáo T nên mức hình phạt của bị cáo cũng sẽ thấp hơn bị cáo T.

[6]. Về các vấn đề khác:

- Đối với hành vi của ông C V M cho bị cáo T mượn tiền và nhận giữ xe kéo tự chế cùng lục bình bằng gỗ nhưng không biết đây là tài sản do T trộm cắp mà có nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.

- Đối với người phụ nữ đã mua 02 bình gas, 01 quạt điện treo tường và 01 bàn phím máy vi tính của bị cáo K. Qua điều tra, chưa xác định được lai lịch người này. Cơ quan điều tra công an huyện Thuận Bắc đã thông báo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa biết, phối hợp điều tra và xử lý sau khi có đủ căn cứ.Vì vậy, HĐXX không xem xét.

- Đối với người tên C ở thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa đã cho bị cáo K mượn xe mô tô chở bị cáo T đi trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, qua điều tra chưa xác định được lai lịch của người này và bị cáo K cũng khai nhận khi mượn xe thì không nói cho C biết là dùng xe mô tô đi trộm cắp. Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Bắc tiếp tục phối hợp với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang điều tra làm rõ và xử lý sau nếu đủ căn cứ. Do đó, HĐXX không xem xét trong vụ án này.

- Đối với L Tr Ng Kh đã cho bị cáo T mượn xe mô tô để chở tài sản trộm cắp đi tiêu thụ. Qua điều tra chưa làm việc với Kh (lý do Kh không có mặt tại địa phương) và bị cáo T cũng khai nhận khi mượn xe mô tô thì không nói cho Kh biết là mượn xe để chờ tài sản trộm cắp được đi tiêu thụ. Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau nếu đủ căn cứ. Do đó, HĐXX không xem xét trong vụ án này.

- Ngoài ra, các bị cáo còn khai có mua ma túy của 02 người đàn ông (không rõ lai lịch) ở khu vực bến xe thành phố Cam Ranh và thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Bắc đã có văn bản thông báo cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cam Ranh và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa biết để phối hợp điều tra và xử lý theo quy định.

HĐXX không xem xét.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Ng V C và ông T A V đã nhận lại các tài sản bị mất gồm 01 lục bình bằng gỗ và xe kéo tự chế làm bằng khung sắt nên không yêu cầu bồi thường đối với các tài sản này. Đối với các tài sản bị mất không thu hồi được gồm 02 bình gas, 01 bàn phím máy vi tính và 01 quạt điện treo tường, bị hại Ng V C yêu cầu các bị cáo bồi thường với tổng số tiền là 2.800.000 đồng, bị cáo Ng H K đã tác động gia đình bồi thường đủ số tiền theo yêu cầu của bị hại.

Đối với số tiền 1.300.000 đồng mà bị cáo Ph M T mượn của ông C V M thì ông M không yêu cầu bị cáo T phải hoàn trả lại số tiền này.

[8] Xử lý vật chứng và các vấn đề khác: Áp dụng Điều 47, Điều 48 BLHS, Điều 106 BLTTHS. Buộc bị cáo Ng H K phải nộp số tiền 312.000 đồng có được từ việc bán tài sản trộm cắp do đã tiêu xài hết và tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS. Tuyên bố các bị cáo Ph M T, Ng H K phạm tội trộm cắp tài sản.

Xử phạt bị cáo Ph M T 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 25/12/2021.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS. Xử phạt bị cáo Ng H K 09 (chín) tháng tù. Hạn tù tính từ ngày 31/12/2021

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47, Điều 48 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

Buộc bị cáo Ng H K phải nộp số tiền 312.000 đồng có được từ việc bán tài sản trộm cắp mà có để tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Ph M T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Ng H K phải chịu 200.000 đồng tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt các bị cáo, bị hại. Quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 27/4/2022). Riêng người bị hại vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, niêm yết bản án hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

121
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 08/2022/HS-ST

Số hiệu:08/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Bắc - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về