Bản án về tội trộm cắp tài sản số 04/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 04/2022/HS-ST NGÀY 11/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 95/2021/ HSST ngày 10 tháng 11 năm 2021. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số128 /2021/ QĐXXST – HS ngày 13 tháng 12 năm 2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đình B, sinh năm 1988, tại tỉnh T Nơi cư trú: Thôn SL, xã TS, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Lê Thị K; bị cáo có vợ và 01 người con sinh năm 2011 tiền án: Không Tiền sự: Ngày 13/4/2016 bị Công an huyện BĐ xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản (bị cáo chưa chấp hành) Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 25/8/2021 cho đến nay (có mặt).

- Bị hại: Nguyễn Đăng Q, sinh năm 1960 (Có mặt) Địa chỉ: Thôn SL, xã TS, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước.

- Người làm chứng: Cao Ngọc A, sinh năm 1988(vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Sơn Hiệp, xã TS, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ ngày 30/4/2021, Nguyễn Đình B đến nhà anh Nguyễn Đăng Q tại thôn SL, xã TS, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước để rủ anh Q đi đám ma. Khi vào trong nhà, B nhìn thấy anh Q đang ngủ và tiền trong túi quần anh Q để cạnh đầu giường bị lộ hẳn ra ngoài nên nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền trong túi quần anh Q. Sau khi lấy trộm được 6.200.000 đồng, B sử dụng vào việc mua 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy M11, màu xanh với giá 2.990.000đ, mua 01 sim điện thoại giá 120.000 đồng, 01 card viettel giá 120.000 đồng, tiêu xài cá nhân 2.260.000 đồng. Anh Q phát hiện mất tiền nên trình báo, Công an xã TS triệu tập làm việc, B thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên và giao nộp số tiền 710.000 đồng chưa sử dụng hết và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy M11, màu xanh.

- Về vật chứng vụ án: 01 điện thoại di động Sam sung galaxy M11, màu xanh và số tiền 710.000 đồng. Ngày 04/7/2021, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Bù Đăng đã trả lại số tiền 710.000 đồng cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Đăng Q. Ngày 26/10/2021, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Bù Đăng đã chuyển 01 điện thoại di động Sam sung galaxy M11, màu xanh sang Chi cục Thi hành án để phục vụ công tác truy tố, xét xử.

- Về trách nhiệm dân sự: anh Nguyễn Đăng Q đã nhận lại số tiền 710.000 đồng và yêu cầu Nguyễn Đình B trả lại số tiền 6.200.000 đồng.

- Tại Cáo trạng số 93/CT –VKS.BĐ ngày 08/11/2021, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo Nguyễn Đình B về Tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát khẳng định nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố. Về tội danh đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình B phạm Tội trộm cắp tài sản;

Về hình phạt, áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

- Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Đình B từ 09 đến 12 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung.

Bị cáo Nguyễn Đình B thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác đối với đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan CSĐT - Công an huyện Bù Đăng, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Vào khoảng 6 giờ ngày 30/4/2021, Nguyễn Đình B đã có hành vi lén lút trộm cắp số tiền 6.200.000 đồng trong túi quần của anh Nguyễn Đăng Q tại thôn SL, xã TS, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại về thời gian, địa điểm và hành vi phạm tội.

Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Nguyễn Đình B đã phạm Tội trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điều 173. Tội trộm cắp tài sản “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”.

Như vậy, nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, do bản tính lười lao động muốn có tiền đề tiêu xài bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến tài sản của người khác, đây là quyền về tài sản được pháp luật bảo vệ. Ngoài ra, hành vi của bị cáo còn làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự trị an tại địa phương. Bản thân bị cáo đã bị xử lý hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, bị cáo chưa chấp hành Quyết định xử phạt mà còn tiếp tục phạm tội, thể hiện tính coi thường pháp luật của bị cáo.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1, Điều 52 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2007.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có con còn nhỏ. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2, Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xét toàn bộ tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng. Hội đồng xét xử thấy cần xử bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- 01 điện thoại di động Sam sung galaxy M11, màu xanh và số tiền 710.000 đồng. Ngày 04/7/2021, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Bù Đăng đã trả lại số tiền 710.000 đồng cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Đăng Q là đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Cần quản thủ 01 điện thoại di động Sam sung galaxy M11, màu xanh để đảm bảo thi hành án.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự; các Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo phải trả cho anh Nguyễn Đăng Q số tiền 6.200.000 đồng.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Bị cáo đang ở tuổi lao động, có nghề nghiệp và có thu nhập nên cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Đối với quan điểm xử lý vụ án của đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình B phạm Tội trộm cắp tài sản.

* Áp dụng khoản 1, Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2, Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình B 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 25/8/2021.

[2] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự; các Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật dân sự năm 2015.

Tuyên buộc bị cáo phải trả cho anh Nguyễn Đăng Q số tiền 6.200.000 đồng. Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn thi hành án theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

[3] Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tuyên quản thủ 01 điện thoại di động Sam sung galaxy M11, màu xanh để đảm bảo thi hành án.

[4] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Đình B phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

120
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 04/2022/HS-ST

Số hiệu:04/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về