Bản án về tội trộm cắp tài sản số 02/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 02/2022/HS-ST NGÀY 07/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 07 tháng 01 năm 2021 tại Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 190/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 197/2021/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 12 năm 2021 và Thông báo hoãn phiên tòa số 22/TB-TA ngày 23/12/2021, đối với bị cáo:

Lê Quốc T, sinh năm 1984 tại tỉnh Hà Tĩnh. Hộ khẩu thường trú: Thôn A, xã N, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh; Chỗ ở hiện nay: Không ổn định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Nghề nghiệp: Không; Cha là Lê Quốc K (đã chết), mẹ là Trần Thị Q (đã chết); Bị cáo là con thứ tư trong gia đình có 6 anh chị em; Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, Tiền sự: không. Nhân thân:

- Bản án số 01/2005/HSST ngày 14/3/2005 của Tòa án nhân dân huyện Côn Đảo xử phạt Lê Quốc T 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 21/7/2005 chấp hành xong hình phạt tù.

- Bản án số 06/2008/HSST ngày 24/4/2008 của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt Lê Quốc T 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Bản án số 188/2008/HSPT ngày 31/12/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt Lê Quốc T 18 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp với hình phạt 24 tháng tù của Bản án số 06/2008/HSST ngày 24/4/2008 của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, buộc Lê Quốc T chấp hành hình phạt chung là 42 tháng tù. Ngày 17/01/2011 chấp hành xong hình phạt tù.

- Bản án số 524/2014/HSST ngày 17/12/2014 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt Lê Quốc T 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 08/7/2017 chấp hành xong hình phạt tù.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 06/4/2021, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Trần Văn S, sinh năm 2000, vắng mặt.

Địa chỉ: Tổ A, ấp P, xã P, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Đinh T S, sinh năm 1978, vắng mặt.

Địa chỉ: Số 400 đường B, phường N, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

+ Ông Trần Quốc V, sinh năm 1992, vắng mặt.

Địa chỉ: đường Trần Cao V, Phường A, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

+ Ông Nguyễn Phi L, sinh năm 1981, vắng mặt.

Địa chỉ: khu phố P, phường M, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

+ Ông Chu Văn T, sinh năm 1987, vắng mặt.

Địa chỉ: khu phố A, Phường L, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

+ Ông Trần Danh L, sinh năm 1996, vắng mặt.

Địa chỉ: khu phố T, phường T, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Quốc T làm nghề phụ sửa ghe cho gia đình bà Nhài thuộc ấp Phước Lợi, xã Phước Tỉnh, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 09/3/2021, sau khi đi làm về, T vào nhà bà Nhài để tắm thì phát hiện chiếc xe mô tô hiệu Honda, loại xe SH mode, màu đỏ, BS 72K1 – 601.85 của Trần Văn S (là con của bà Nhài) để ở phòng khách nhưng không có ai ở nhà nên T nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe nói trên. Để thực hiện ý định, T đi ra phía sau nhà tìm chìa khóa và phát hiện chìa khóa để trên kệ sách cùng với chiếc ví da. Lúc này, T lấy chìa khóa và lục chiếc ví da không có tiền, chỉ có giấy đăng ký xe nên T lấy giấy đăng ký xe để vào trong túi quần đang mặc rồi tiếp tục đi xuống phía sau nhà kéo ngăn tủ quần áo ra để lục tìm tài sản nhưng trong tủ không có tài sản nên T đi lên phòng khách rồi lấy chìa khóa mở khóa xe mô tô chạy xe ra ngoài đường. Theo lời khai của T, sau khi chạy xe đi ra đường được một đoạn thì điện thoại cho Lê Tấn Hiền, sinh năm 1997, Nơi cư trú: Ấp Phước Lợi, xã Phước Tỉnh, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (là bạn ngoài xã hội) cho biết đã lấy được tài sản. Hiền và T hẹn gặp nhau tại khu vực ngã tư thuộc ấp Phước Thiện, xã Phước Tỉnh, huyện Long Điền để cùng nhau tìm nơi tiêu thụ. Sau đó, T và Hiền đi đến thành phố Bà Rịa nhưng không tìm được người bán xe mô tô trộm được. Lúc này, do Hiền mệt nên T một mình chạy xe mô tô lên tỉnh Đồng Nai và bán chiếc xe mô tô trên cho một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch và địa điểm bán) với giá 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng). Sau khi bán được xe, T đón xe taxi đi về thành phố Bà Rịa và gặp Hiền rồi cả hai thuê phòng trọ để ngủ qua đêm. Tại đây, T đưa cho Hiền hết số tiền bán xe có được là 25.000.000 đồng cho Hiền cất giữ để trả tiền thuê phòng trọ và mua ma túy sử dụng. Đến khoảng 10 giờ ngày 10/3/2021, T và Hiền thuê xe taxi chở về xã Phước Tỉnh, huyện Long Điền và đã sử dụng hết số tiền trên.

Trần Văn S sau khi phát hiện xe bị mất trộm đã đến trình báo cơ quan Công an. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Điền, T đã khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên.

Tại Kết luận định giá tài sản số 22/KL-HĐĐGTS ngày 25/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Long Điền kết luận giá trị chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH mode, màu đen đỏ, biển kiểm soát 72K1-601.85 là 54.400.000 đồng (năm mươi bốn triệu, bốn trăm nghìn đồng).

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda SH mode, màu đỏ, biển kiểm soát 72K1- 601.85. Ngày 14/10/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Điền phát hiện và thu giữ chiếc xe mô tô trên do ông Trần Quốc V giao nộp. Ngày 01/11/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Điền đã ra quyết định xử lý vật chứng giao trả cho bị hại là Trần Văn S.

- 01 áo sơ mi màu xanh.

- 01 DVD trong đó có chứa dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án được trích xuất từ camera, hiện được lưu theo hồ sơ vụ án.

Về trách nhiệm dân sự:

- Trần Văn S đã nhận lại xe mô tô bị chiếm đoạt nên không yêu cầu bồi thường gì thêm.

- Ông Trần Danh L nhận cầm cố chiếc xe mô tô trên của một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) rồi sau đó bán cho ông Chu Văn T. Ông Thiết bán chiếc xe mô tô trên cho ông Nguyễn Phi L. Ông Long bán chiếc xe mô tô trên cho ông Trần Quốc V. Ông Việt bán chiếc xe mô tô trên cho ông Đinh T Sơn. Sau khi chiếc xe mô tô trên bị thu hồi thì các ông Sơn, Việt, Long, Thiết, Linh đã thỏa thuận được với nhau về phần bồi thường dân sự nên không có yêu cầu gì trong vụ án này.

1. Tại Cáo trạng số 186/CT-VKS ngày 17/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền đã truy tố Lê Quốc T tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Trong quá trình điều tra, Lê Tấn Hiền khai nhận có quen biết với Lê Quốc T nhưng Hiền không biết việc T trộm cắp chiếc xe mô tô trên cũng như không đi cùng T tìm tiêu thụ chiếc xe và tiêu xài số tiền bán xe có được. Xét thấy, ngoài lời khai của T, hiện không còn chứng cứ nào khác chứng minh Hiền có liên quan đến hành vi chiếm đoạt chiếc xe mô tô của ông Sơn cũng như hành vi tiêu thụ chiếc xe nói trên. Do đó, không có cơ sở xử lý đối với Hiền.

Đối với Trần Danh L, Chu Văn T, Nguyễn Phi L, Trần Quốc V và Đinh T Sơn đã mua lại chiếc xe nói trên, do xe có giấy chứng nhận đăng ký nên khi cầm và mua Linh, Thiết, Long, Việt và Sơn không biết chiếc xe mô tô do phạm tội mà có nên không có cơ sở để xử lý về hành vi “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

2. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền giữ nguyên quan điểm truy tố đối với T đúng theo nội dung bản Cáo trạng số 186/CT- VKS ngày 17/11/2021. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả do hành vi phạm tội của T gây ra, nêu lên tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đã đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: Lê Quốc T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

- Áp dụng: Điểm c Khoản 2 Điều 173; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Lê Quốc T từ 2 năm 6 tháng đến 3 năm tù.

- Về xử lý vật chứng: Trả lại cho T 01 áo sơ mi màu xanh. Lưu theo hồ sơ vụ án 01 DVD trong đó có chứa dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án được trích xuất từ camera.

3. Phần tranh luận: T đồng ý với tội danh, điều luật và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng mà Đại diện Viện kiểm sát truy tố và luận tội. T không bào chữa cho hành vi phạm tội của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.

4. Lời nói sau cùng của T: Mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Điền, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên tòa, Lê Quốc T khai nhận về hành vi phạm tội do bị cáo gây ra đúng như nội dung Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền đã truy tố. Cụ thể: Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 09/3/2021, tại nhà bà Nguyễn Thị Nhài thuộc Ấp Phước Lợi, xã Phước Tỉnh, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Lê Quốc T đã có hành vi vào nhà bà Nhài lén lút chiếm đoạt chiếc xe mô tô hiệu Honda, loại xe SH mode, màu đỏ, BS: 72K1–601.85 của ông Trần Văn S với giá trị đã định giá là 54.400.000đ (Năm mươi bốn triệu, bốn trăm nghìn đồng).

Xét lời khai nhận tội của T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của T tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Hành vi của T là cố ý, nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến khách thể được luật hình sự bảo vệ là quyền sở hữu tài sản của công dân. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi trộm cắp tài sản của mình.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định hành vi của T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Như vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền truy tố đối với T là đúng người, đúng tội, phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, T thành khẩn khai báo. Do đó, T được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Căn cứ vào hành vi phạm tội, nhân thân của T và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy: Cần xử phạt T hình phạt tù tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội nhằm giáo dục, cải tạo T và đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại đã nhận lại xe mô tô bị chiếm đoạt và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xét đến.

Ông Trần Danh L nhận cầm cố chiếc xe mô tô trên của một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) rồi sau đó bán cho ông Chu Văn T. Ông Thiết bán chiếc xe mô tô trên cho ông Nguyễn Phi L. Ông Long bán chiếc xe mô tô trên cho ông Trần Quốc V. Ông Việt bán chiếc xe mô tô trên cho ông Đinh T Sơn. Sau khi chiếc xe mô tô trên bị thu hồi thì các ông Sơn, Việt, Long, Thiết, Linh đã thỏa thuận được với nhau về phần bồi thường dân sự và không có yêu cầu gì nên không xét đến.

[6] Xử lý vật chứng: Trả lại cho T 01 áo sơ mi màu xanh do không liên quan đến vụ án. Lưu theo hồ sơ vụ án 01 DVD trong đó có chứa dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án được trích xuất từ camera.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Lê Quốc T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Điểm c Khoản 2 Điều 173; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Lê Quốc T 3 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/4/2021.

2. Về xử lý vật chứng:

- Trả lại cho T 01 áo sơ mi màu xanh (Vật chứng này đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Điền theo Biên bản giao nhận vật chứng số 129/BB-CCTHADS ngày 15/7/2021).

- Lưu theo hồ sơ vụ án 01 DVD trong đó có chứa dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án được trích xuất từ camera.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH-14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Buộc Lê Quốc T nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 07/01/2022). Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 02/2022/HS-ST

Số hiệu:02/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về