TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 02/2022/HS-PT NGÀY 04/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 04 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 332/2021/TLPT-HS ngày 12 tháng 11 năm 2021 đối với Hà Đức D do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 361/2021/HSST ngày 28/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo có kháng cáo:
Hà Đức D (tên gọi khác: Cu); giới tính: nam; sinh năm: 1999 tại tỉnh Đồng Nai; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 4, xã XT, huyện XL, tỉnh ĐN; nghề nghiệp: sửa xe; trình độ văn hóa: 5/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không có; con ông: Không rõ và bà HTĐ; hoàn cảnh gia đình: có vợ và 01 con sinh năm 2019; tiền sự: không;
Tiền án:
- Ngày 14/9/2016, Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cướp tài sản”.
- Ngày 24/01/2019, Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt với Bản án số 403/2016/HSST ngày 14/9/2016 là 02 năm tù. Ngày 26/12/2019 chấp hành xong hình phạt tù, chưa nộp án phí.
Bị bắt tạm giam từ ngày 12/3/2021 (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 16/8/2020, Phan Thảo V và Nguyễn Huy T thực hiện hành vi trộm cắp xe gắn máy hiệu Honda Wave biển số 93P2-101.08 của ông Nguyễn CT thì bị phát hiện truy đuổi và bắt giữ. Tại cơ quan cảnh sát điều tra, Nguyễn Huy T, Phan Thảo V khai nhận hành vi phạm tội đồng thời khai nhận trước đó đã cùng Hà Đức D và Bo, Gấu, Trúc (đều chưa rõ lai lịch) thực hiện các vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Thủ Đức như sau:
Vụ thứ 1: Khoảng 02 giờ 40 phút ngày 03/5/2020, Hà Đức D, Phan Thảo V và Nguyễn Huy T rủ nhau đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài. V điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Exiter biển số: 66G1-xxxxx chở D, riêng T điều khiển xe mô tô hiệu Dream (không rõ biển số). Khi đến nhà trọ số 39 KVC, khu phố B, phường HBC, thành phố TĐ thì phát hiện cửa cổng nhà trọ không khóa, bên trong có để 01 xe gắn máy hiệu Honda Vision biển số 49H1-xxxxx của bà Nguyễn Thị TT nên D dùng cây kìm cắt xích xe làm bằng dây cáp nên D và V dùng tay bẻ cổ xe đẩy bộ ra ngoài. D bứt dây điện ổ khóa xe, rồi ngồi lên xe mô tô lấy trộm được để cho V, T điều khiển xe gắn máy dùng chân đẩy xe về nhà trọ của V bán cho tên Đức (chưa rõ lai lịch) với giá 5.000.000 đồng, Đức trả trước 3.000.000 đồng còn nợ lại 2.000.000 đồng. D, V và T chia đều mỗi người 1.000.000 đồng tiêu xài cá nhân hết.
Kết luận định giá tài sản số 1690/CV-HĐ ĐGTSTTHS ngày 20/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Thủ Đức kết luận: 01 xe gắn máy hiệu Honda Vision biển số 49H1-xxxxx trị giá 15.000.000 đồng.
Vụ thứ 2: Khoảng 02 giờ ngày 06/6/2020, Bo (chưa rõ lai lịch) chở Hà Đức D trên xe Wave màu đỏ (không rõ biển số); Gấu (chưa rõ lai lịch) chở Nguyễn Huy T trên xe gắn máy Sirius màu xanh (không rõ biển số) đi tìm tài sản sơ hở lấy trộm. Khi đến nhà trọ số 2/1 đường số M, khu phố M, phường HBC, thành phố TĐ thì phát hiện cửa cổng nhà trọ mở, bên trong có để 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius biển số 37Z7-xxxx của bà Nguyễn Thị Q, không có người trông coi. Lúc này, D đi một mình vào dùng tay bẻ cổ xe rồi bứt dây điện xe và dắt xe ra ngoài bẻ khóa xe tẩu thoát. Sau đó, D cùng Gấu đem đi bán xe cho Đức được 1.600.000 đồng, chia cho T, D, Bo và Gấu mỗi người 400.000 đồng tiêu xài cá nhân.
Kết luận định giá tài sản số 1690/CV-HĐ ĐGTSTTHS ngày 20/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Thủ Đức kết luận: 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius biển số 37Z7-xxxx trị giá 5.000.000 đồng.
Vụ thứ 3: Khoảng 13 giờ 50 phút ngày 16/7/2020, T chở Hà Đức D trên xe gắn máy hiệu Honda AirBlade (không rõ biển số) tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khi đến trước nhà số 606/76/4 Quốc lộ MB, phường HBP, thành phố TĐ thì phát hiện 01 xe gắn máy hiệu Honda Wave biển số 60C2-xxxxx của ông Vũ Trường G để bên ngoài không người trông coi. D đến dùng cây đoản bẻ ổ khóa xe gắn máy của ông G, rồi lên xe nổ máy điều khiển ra ngoài tẩu thoát về nhà trọ của Đức, bán được 4.500.000 đồng, chia đều mỗi người được 2.250.000 đồng tiêu xài cá nhân hết.
Kết luận định giá tài sản số 1763/CV-HĐ ĐGTSTTHS ngày 03/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Thủ Đức kết luận: 01 xe gắn máy hiệu Honda Wave biển số 60C2-xxxxx trị giá 12.000.000 đồng.
Ngày 20/10/2020 Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đưa Phan Thảo V, Nguyễn Huy T ra xét xử theo bản án số 301/2020/HSST, riêng Hà Đức D đến ngày 12/3/2021 thì bị bắt giữ.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 361/2021/HSST ngày 28/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
- Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự
+ Xử phạt: Hà Đức D 04 (bốn) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 12/3/2021.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo. Ngày 06/10/2021, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa phúc thẩm nêu quan điểm kết luận cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội, mức hình phạt đã tuyên là thỏa đáng. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo trong hạn luật định nên hợp lệ.
Xét lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ mà nội dung bản án sơ thẩm đã nêu, có đủ cơ sở xác định từ tháng 5 đến tháng 7/2020 Hà D Đức đã cùng nhiều đối tượng lén lút chiếm đoạt 03 chiếc xe gắn máy, có tổng trị giá 32.000.000 đồng. Bị cáo đã tái phạm chưa được xóa án tích, lần này phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự là xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Mức hình phạt cấp sơ thẩm đã tuyên là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết mới để xem xét giảm nhẹ hình phạt nên Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hà Đức D. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
+ Xử phạt: Hà Đức D 04 (bốn) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 12/3/2021.
Bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 02/2022/HS-PT
Số hiệu: | 02/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về