Bản án về tội tổ chức và chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy số 103/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 103/2022/HS-ST NGÀY 21/06/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC VÀ CHỨA CHẤP VIỆC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 102/2022/TLST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 6 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn T, sinh năm 1997 tại K; hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh K; chỗ ở: Khu phố 3, phường M, thị xã B, tỉnh B; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T2, sinh năm 1976 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1977; vợ Trần Thị Tố Q, sinh năm 2001; bị cáo có 01 con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 24/5/2022, bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xử phạt 10 (mười) tháng tù về tội: “Không tố giác tội phạm” đối với hành vi thực hiện ngày 20/01/2020; ngày 22/12/2021, bị bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát cho đến nay; bị cáo có mặt.

2. Nguyễn Ngọc T1, sinh năm 1993 tại tỉnh B; hộ khẩu thường trú: Thôn Q, xã N, huyện C, tỉnh B; chỗ ở: Khu phố 3, phường M, thị xã B, tỉnh B; nghề nghiệp: Quản lý nhà nghỉ; trình độ học vấn 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc M1, sinh năm 1970 và bà Võ Thị K, sinh năm 1969; tiền án, tiền sự: Không; ngày 22/11/2021, bị bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát cho đến nay; bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 22/12/2021, tại phòng số 08 nhà nghỉ V thuộc khu phố 3, phường M, thị xã B, tỉnh B, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy Công an thị xã Bến Cát phối hợp Công an phường Mỹ Phước kiểm tra hành chính, phát hiện Nguyễn Văn T, Nguyễn Ngọc T1 và Lương Thị Trà M3 đang sử dụng trái phép chất ma túy. Lực lượng công an tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính, mời các đối tượng làm việc và thu giữ tang vật gồm: 01 chai nhựa có nắp màu đỏ, trên nắp có gắn 01 đoạn ống thủy tinh và 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu đỏ đen, sim số 0347.097.037 của Nguyễn Văn T; 01 điện thoại di động hiệu Realme màu xanh, sim số 0396.635.487 của Nguyễn Ngọc T1 và 01 xe mô tô hiệu Suzuki Raider, màu đen, biển số 83P4- 224.47. Quá trình điều tra, Nguyễn Văn T, Nguyễn Ngọc T1 và Lương Thị Trà M3 khai nhận: T, T1, M3 là bạn bè quen biết với nhau và đều nghiện ma túy đá (Methamphetamine). T1 làm quản lý nhà nghỉ V thuộc Khu phố 3, phường M, thị xã B, tỉnh B và ở tại phòng số 8 Nhà nghỉ V. Vào khoảng 08 giờ 30 phút ngày 22/12/2021, T có nhu cầu sử dụng ma túy đá nên dùng điện thoại di động của mình gọi cho người bán ma túy không rõ nhân thân, lai lịch hỏi mua 150.000 đồng ma túy đá thì người này nói không còn ma túy đá để bán nhưng có một ít ma túy đá còn trong nỏ thủy tinh, cho T sử dụng. Người này chỉ dẫn T đến chỗ cạnh đoạn đường SB1 thuộc khu vực khu phố 3, phường Mỹ Phước lấy nỏ thủy tinh có sẵn ma túy đá được để trong 01 gói thuốc lá hiệu Jet. T đồng ý và điều khiển xe đến nơi chỉ dẫn lấy được ma túy. Sau đó, khoảng 09 giờ 45 phút cùng ngày, T gọi điện thoại cho T1, đang ở phòng số 08 nhà nghỉ V, nói đến chơi thì T1 đồng ý. Tại đây, T dùng một chai nhựa có nắp màu đỏ nhặt được trước nhà nghỉ V cùng nỏ thủy tinh có sẵn ma túy đá xin được chế tạo T1 bộ dụng cụ sử dụng ma túy rồi rủ T1 cùng sử dụng, T1 đồng ý và sử dụng cùng T. Đến khoảng 11 giờ, T nói với T1 rủ thêm M3 đến chơi thì T1 đồng ý. Khi M3 đến, T rủ M3 cùng sử dụng hết phần ma túy đá còn lại trong nỏ thủy tinh. Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, lực lượng công an đến kiểm tra, phát hiện tang vật.

Đối với xe mô tô hiệu Suzuki Raider, màu đen, biển số 83P4-224.47 là xe của chị Nguyễn Thị Thanh N, sinh năm 1996 đứng tên giấy chứng nhận đăng ký xe. Ngày 22/12/2022, anh Nguyễn Bé T3 là chồng của chị Ngân cho T mượn xe để đi công việc. Ngày 10/4/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát ra Quyết định xử lý vật chứng giao trả xe mô tô 83P4-224.47 cho chị Ngân.

Đối với hành vi của Lương Thị Trà M3, ngày 15/01/2022, Công an thị xã Bến Cát ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 20/QĐ-XPHC xử phạt 375.000 đồng đối với Lương Thị Trà M3 về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Tại bản Cáo trạng số 107/CT-VKSBC ngày 31 tháng 5 năm 2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã truy tố:

Bị cáo Nguyễn Văn T về tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 Bị cáo Nguyễn Ngọc T1 về tội: “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo theo tội danh, điều luật như Cáo trạng số 107/CT-VKSBC ngày 31 tháng 5 năm 2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 255; điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T mức án từ 08 (tám) năm đến 09 (chín) năm tù về về tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 256; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T1 mức án từ 07 (bảy) năm đến 08 (tám) năm tù về tội: “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 chai nhựa có nắp màu đỏ, trên nắp có gắn 01 đoạn ống thủy tinh và 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng; sim số 0347097037 của bị cáo Nguyễn Văn T.

- Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu đỏ đen của bị cáo Nguyễn Văn T.

- Trả lại điện thoại di động hiệu Realme màu xanh có gắn sim số 0396635487 cho bị cáo Nguyễn Ngọc T1.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện Kiểm sát. Trong phần tranh luận tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của kiểm sát viên.

Lời sau cùng của các bị cáo: Bị cáo Nguyễn Văn T và Nguyễn Ngọc T1 mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Bến Cát, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng đã truy tố. Lời khai của các bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã thu thập tại hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 10 giờ đến 12 giờ ngày 22/12/2021, tại phòng số 08 nhà nghỉ V thuộc Khu phố 3, phường M, thị xã B, tỉnh B, Nguyễn Văn T có hành vi chuẩn bị bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, có sẵn ma túy đá trong nỏ thủy tinh mà T xin được trước đó, rủ bị cáo Nguyễn Ngọc T1 và Lương Thị Trà M3, sinh ngày 10/02/2004 (dưới 18 tuổi) cùng sử dụng hết ma túy. Đối với bị cáo Nguyễn Ngọc T1, cũng trong thời gian trên bị cáo T1 đã có hành vi để cho Nguyễn Văn T đem ma túy đến chỗ ở của mình là phòng số 08 nhà nghỉ V sử dụng ma túy đá cùng với Lương Thị Trà M3.

Hành vi trên của bị cáo Nguyễn Văn T đã đủ yếu tố cấu T1 tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc T1 đã đủ yếu tố cấu T1 tội: “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Như vậy Bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc T1 về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, phù hợp hoàn toàn với hành vi thực tế mà các bị cáo đã gây ra.

[3] Về tính chất, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[3.1] Về tính chất: Ma túy là chất được Nhà nước độc quyền quản lý, chất ma túy không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của người sử dụng mà còn ảnh hưởng xấu đến gia đình, xã hội và là một trong những nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội khác. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Bị cáo Nguyễn Văn T biết hành tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Bị cáo Nguyễn Ngọc T1 biết hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện một cách liều lĩnh, xem thường pháp luật. Do đó, cần phải xét xử các bị cáo thật nghiêm minh để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong toàn xã hội, cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài để các bị cáo tự cai nghiện cũng như có thời gian lao động, học tập, rèn luyện tu dưỡng đạo đức của mình để trở T1 người công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội khi quay lại hòa nhập với cộng đồng.

[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo có thái độ T1 khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3.3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo Nguyễn Văn T và Nguyễn Ngọc T1 không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 chai nhựa có nắp màu đỏ, trên nắp có gắn 01 đoạn ống thủy tinh và 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng; sim số 0347097037 của bị cáo Nguyễn Văn T.

- Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu đỏ đen của bị cáo Nguyễn Văn T.

- Trả lại điện thoại di động hiệu Realme màu xanh có gắn sim số 0396635487 cho bị cáo Nguyễn Ngọc T1.

[5] Đối với Lương Thị Trà M3 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên ngày 15/01/2022, Công an thị xã Bến Cát ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 20/QĐ-XPHC xử phạt 375.000 đối với Lương Thị Trà M3 là có căn cứ.

[6] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về tội danh, điều luật và mức hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn T và Nguyễn Ngọc T1 phải chịu theo Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

- Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 255; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 08 (tám) năm tù.

Căn cứ vào Điều 56 về tổng hợp hình phạt của nhiều Bản án, tổng hợp với 10 (mười) tháng tù theo Bản án số 76/2020/HS – ST ngày 24/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chấp hành hình phạt chung là 08 (tám) năm 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/12/2021.

- Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 256; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc T1 phạm tội: “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T1 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/12/2021.

2. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 chai nhựa có nắp màu đỏ, trên nắp có gắn 01 đoạn ống thủy tinh và 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng; sim số 0347097037 của bị cáo Nguyễn Văn T.

- Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu đỏ đen của bị cáo Nguyễn Văn T (không kiểm tra được model, số IMEI, tại thời điểm giao nhận máy không khởi động được).

- Trả lại điện thoại di động hiệu Realme màu xanh có gắn sim số 0396635487 cho bị cáo Nguyễn Ngọc T1 (không kiểm tra được model, số IMEI, tại thời điểm giao nhận máy không khởi động được ).

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 07 tháng 6 năm 2022 giữa Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương với Chi cục Thi hành án thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Nguyễn Ngọc T1 và Nguyễn Văn T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo:

Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức và chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy số 103/2022/HS-ST

Số hiệu:103/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về