TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ H
BẢN ÁN 95/2022/HS-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 83/2022/TLST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 92/2022/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2022 đối với các bị cáo:
1. Bùi Văn T, sinh năm 1991 tại thành phố H. Nơi cư trú: Thôn R, xã T, huyện T, thành phố H. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Văn S và bà Bùi Thị N; Có vợ là Nguyễn Thị T và có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2021. Tiền án: Bản án số 73/2014/HSST ngày 01/7/2014 của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xử phạt 11 năm tù về tội "Cướp tài sản", thi hành xong án phí hình sự sơ thẩm ngày 19/9/2014, chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/8/2020 (chưa xóa án tích). Tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 29/3/2022 đến ngày 07/4/2022 chuyển tạm giam. Có mặt.
2. Trần Văn M, sinh năm 1991 tại thành phố H. Nơi cư trú: Thôn A, xã A, huyện T, thành phố H. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn H và bà Phạm Thị B; Có vợ là Hoàng Thị H (chưa đăng ký kết hôn) và có 01 con sinh năm 2021. Tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 12/7/2022 đến ngày 15/7/2022 chuyển tạm giam. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 22 giờ 45 phút ngày 28/3/2022, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện T kết hợp với Công an xã T kiểm tra quán Karaoke V thuộc thôn T, xã T, huyện T, thành phố H, phát hiện tại phòng Vip 4 nhóm đối tượng có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy gồm: Bùi Văn T; Trần Văn T, sinh năm 1989, trú tại thôn B, xã T, huyện T, thành phố H; Đinh Văn A, sinh năm 1991, trú tại thôn T, xã T, huyện T, thành phố H; Đặng Thị N, sinh năm 2002, đăng ký thường trú tại thôn K, xã Y, huyện T, tỉnh Q và Nguyễn Thị Kiều O, sinh năm 1993, đăng ký thường trú tại xã H, huyện H, tỉnh N (đều trú tại thôn M, xã T, huyện T, thành phố H).
Vật chứng thu giữ gồm: Tại mặt bàn kê sát cửa ra vào có 01 đĩa sứ, trong lòng đĩa có chứa tinh thể màu trắng (nghi chất ma túy) được thu gom vào 01 túi nilon, 01 tẩu tự cuốn bằng tờ tiền 10.000 đồng được cố định bằng 03 vỏ đầu lọc thuốc lá và 01 thẻ nhựa đều bám dính tinh thể màu trắng (nghi chất ma túy). Tạm giữ của Bùi Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone gắn sim số 0783.319.xxx đã qua sử dụng.
Tổ công tác đã đưa các đối tượng trên cùng vật chứng về trụ sở Ủy ban nhân dân xã T lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.
Tiến hành xét nghiệm thành phần nước tiểu của các đối tượng, cho kết quả: Bùi Văn T, Trần Văn T, Đinh Văn A và Đặng Thị N đều dương tính với chất ma túy MDMA và Ketamine; Nguyễn Thị Kiều O dương tính với chất ma túy Ketamine.
Tại Bản Kết luận giám định số 117/KLGĐ-MT ngày 06/4/2022 của Phòng Kỹ thuật Hình sự, Công an thành phố H kết luận: Tinh thể màu trắng thu giữ tại đĩa sứ trong phòng Vip 4 là ma túy loại Ketamine có khối lượng 0,39 gam. Tinh thể màu trắng bám dính trên tẩu cuốn bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng và thẻ nhựa thu giữ tại phòng Vip 4 là ma túy loại Ketamine, không đủ điều kiện xác định khối lượng.
Tại Cơ quan điều tra:
Bùi Văn T khai nhận: Khoảng 20 giờ ngày 28/3/2022, Bùi Văn T mời Trần Văn T đi hát karaoke, chi phí hát và thuê nhân viên phục vụ sẽ do Bùi Văn T chi trả, Trần Văn T đồng ý. Trên đường đi, Bùi Văn T nảy sinh ý định mua ma túy (thuốc lắc và Ketamine) để sử dụng trong phòng hát. T gọi điện cho Trần Văn M, sinh năm 1991, trú tại thôn A, xã A, huyện T, thành phố H nhờ mua giúp 01 chỉ Ketamine và 02 viên “kẹo” (MDMA) mang đến quán karaoke để cùng sử dụng, tiền mua ma túy trả sau, M đồng ý. Sau đó, T đến khu nhà trọ tại xã T, huyện T thuê thêm hai nhân viên nữ là Đặng Thị N và Nguyễn Thị Kiều O đến quán karaoke để phục vụ. Khi đến quán hát, Trần Văn T vào gặp quản lý quán để hỏi thuê phòng và được hướng dẫn vào phòng Vip 4. Sau khi cả nhóm vào phòng hát, Bùi Văn T đi ra ngoài rồi vào nhà kho của quán lấy một chiếc đĩa sứ màu trắng, hình bầu dục rồi mang vào phòng Vip 4 đặt trên mặt bàn. Cả nhóm hát được khoảng 15 phút thì Trần Văn M đến. M đưa ma túy cho Bùi Văn T. Bùi Văn T đưa 02 viên “kẹo” (MDMA) cho Đặng Thị N, bảo N pha chế hộ. N pha xong đưa lại cho Bùi Văn T. Bùi Văn T uống một ngụm rồi mời Trần Văn T, N và O cùng sử dụng. Sau đó, Bùi Văn T đưa gói ma túy Ketamine và 01 tờ tiền polyme mệnh giá 10.000 đồng cho M để cuốn tẩu. M cuốn tẩu, đổ ma túy Ketamine ra đĩa, lấy thẻ nhựa xào, kẻ ma túy thành nhiều đường rồi bê đĩa ma túy đi mời mọi người trong phòng sử dụng. Lúc sau có Đinh Văn A vào phòng chơi cùng mọi người. Sau đó, M về trước. Cả nhóm vừa nghe nhạc vừa sử dụng ma túy đến khoảng 22 giờ 45 phút cùng ngày thì bị lực lượng công an phát hiện bắt quả tang.
Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Văn M tại thôn A, xã A, huyện T không phát hiện và thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan.
Quá trình điều tra, đối tượng Trần Văn M bỏ trốn khỏi địa phương. Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã đối với M. Ngày 12/7/2022, Trần Văn M bị bắt theo quyết định truy nã.
Tại Cơ quan điều tra, Trần Văn M khai nhận: Tối ngày 28/3/2022 khi được Bùi Văn T gọi điện nhờ mua giúp ma túy, M đồng ý và đi xe ôm của một người đàn ông không quen biết sang khu vực đường tàu nội thành H gặp và mua ma túy của một người phụ nữ không quen biết.
Các đối tượng Trần Văn T, Đinh Văn A, Đặng Thị N, Nguyễn Thị Kiều O đều khai nhận phù hợp với nội dung như trên. T, A, N và O được Bùi Văn T và M mời sử dụng ma túy, không phải tham gia đóng góp gì. Trần Văn T được Bùi Văn T mời đi hát, chi phí thuê phòng và thuê nhân viên do Bùi Văn T trả. Trần Văn T và Bùi Văn T đi riêng xe đến quán hát nên Trần Văn T không biết việc Bùi Văn T gọi điện thoại cho M nhờ mua ma túy. N và O là nhân viên phục vụ do Bùi Văn T thuê đến. N thực hiện việc pha chế ma túy MDMA theo sự chỉ đạo của Bùi Văn T. Trần Văn T bảo O ra ngoài mời Đinh Văn A vào phòng uống bia với mọi người. Sau khi vào phòng, A uống vài cốc bia thì có người mời sử dụng 02 đường ma túy Ketamine, do say bia, rượu nên A không nhớ là ai mời.
Lê Viết M và Hoàng Việt H (là nhân viên quán karaoke V) khai chỉ cho nhóm Bùi Văn T thuê phòng hát Vip 4 để hát karaoke, không biết việc nhóm T sử dụng ma túy trong phòng hát.
Vật chứng của vụ án gồm: 01 phong bì niêm phong số 117MT/PC09 chứa chất ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định; 01 phong bì niêm phong số 117MT-A/PC09 bên trong có chứa 01 tờ tiền 10.000 đồng và 01 thẻ nhựa theo kết luận giám định số 117/KL-KTHS(MT) của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H; 01 đĩa sứ hình bầu dục được đựng trong hộp giấy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone đã qua sử dụng gắn sim số 0783319xxx của Bùi Văn T chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện T quản lý.
Bản Cáo trạng số 94/CT-VKSTN ngày 07 tháng 9 năm 2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố H đã truy tố Bùi Văn T về tội "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy" theo các điểm b, h khoản 2 Ðiều 255 của Bộ luật Hình sự và Trần Văn M về tội "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy" theo điểm b khoản 2 Ðiều 255 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Các bị cáo đều khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T. Các bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát truy tố đối với các bị cáo và đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố H giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản Cáo trạng đã công bố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng các điểm b, h khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Bùi Văn T từ 08 năm tù đến 09 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 29/3/2022.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Văn M từ 07 năm 06 tháng tù đến 08 năm 06 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 12/7/2022.
- Không áp dụng phạt bổ sung đối với các bị cáo.
- Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 117MT/PC09 chứa chất ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định, 01 thẻ nhựa, 01 đĩa sứ hình bầu dục. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 tờ tiền 10.000 đồng. Tịch thu phát mại sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone đã qua sử dụng gắn sim số 0783319xxx thu giữ của Bùi Văn T.
- Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về tội danh và điều luật áp dụng: Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và công bố công khai tại phiên tòa. Vì vậy, có đủ căn cứ xác định: Bị cáo Bùi Văn T là người khởi xướng việc sử dụng chất ma túy và gọi điện thoại cho bị cáo Trần Văn M nhờ mua hộ ma túy (MDMA và Ketamine) để cùng sử dụng, chuẩn bị đĩa sứ và đưa cho bị cáo M tờ tiền 10.000 đồng để bị cáo M cuốn tẩu, bị cáo T trực tiếp mời nhiều người trong phòng hát gồm Trần Văn T, Đinh Văn A, Đặng Thị N cùng sử dụng chất ma túy MDMA. Bị cáo Trần Văn M có hành vi trực tiếp đi mua ma túy, cuốn tẩu, xào, kẻ ma túy Ketamine và mời nhiều người trong phòng hát gồm Trần Văn T, Đinh Văn A, Đặng Thị N, Nguyễn Thị Kiều O cùng sử dụng chất ma túy Ketamine; bị lực lượng công an phát hiện, bắt quả tang vào 22 giờ 45 phút ngày 28/3/2022 tại phòng Vip 4 quán Karaoke V thuộc thôn T, xã T, huyện T, thành phố H. Bị cáo Bùi Văn T đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý. Với hành vi nêu trên, bị cáo Bùi Văn T đã phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” với các tình tiết định khung là "Đối với 02 người trở lên" và "Tái phạm nguy hiểm" theo quy định tại các điểm b, h khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự; bị cáo Trần Văn M đã phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung là "Đối với 02 người trở lên" theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ.
[3]. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo nhận thức rõ tác hại của chất ma túy nhưng không có ý thức phòng tránh mà lại coi thường pháp luật, cất giấu chất ma túy để tổ chức sử dụng làm ảnh hưởng tới chính sức khỏe bản thân các bị cáo và của người khác, trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm.
[4]. Đây là vụ án đồng phạm, các bị cáo tiếp thu ý chí của nhau và cùng thực hiện hành vi phạm tội. Phân hóa vai trò đồng phạm, xét thấy: Bị cáo T là người khởi xướng và nhờ bị cáo M mua ma túy về cùng sử dụng, bị cáo T trực tiếp thuê địa điểm, thuê nhân viên phục vụ và chuẩn bị dụng cụ (đĩa sứ, tờ tiền 10.000 đồng cuốn tẩu) để tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và đưa trái phép chất ma túy MDMA vào cơ thể của Trần Văn T, Đinh Văn A, Đặng Thị N. Bị cáo M thống nhất ý chí với bị cáo T việc mua ma túy về cùng sử dụng, trực tiếp đi mua ma túy, trực tiếp cuốn tẩu, xào, kẻ ma túy Ketamine và đưa trái phép chất ma túy Ketamine vào cơ thể của Trần Văn T, Đinh Văn A, Đặng Thị N, Nguyễn Thị Kiều O. Vì vậy, bị cáo T có vị trí, vai trò cao hơn bị cáo M.
[5]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo. Bị cáo T có nhân thân xấu đã từng bị kết án nay lại tiếp tục phạm tội thể hiện ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo là kém. Vì vậy, cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục các bị cáo, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
[6]. Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 255 của Bộ luật Hình sự quy định các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét thấy, các bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
[7]. Về xử lý vật chứng: 01 phong bì niêm phong số 117MT/PC09 chứa chất ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định, 01 thẻ nhựa, 01 đĩa sứ hình bầu dục xác định là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành và là công cụ thực hiện tội phạm nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. Đối với chiếc điện thoại di động thu giữ của bị cáo T dùng để liên lạc trong việc thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu phát mại sung vào ngân sách nhà nước.
[8]. Trong vụ án này, đối tượng Đặng Thị N là nhân viên phục vụ được Bùi Văn T thuê đến phòng hát karaoke để phục vụ nhóm T, có hành vi pha chế ma túy MDMA theo sự chỉ đạo của T. Tuy nhiên, N không được tham gia bàn bạc về việc sử dụng ma túy tại phòng hát, không biết mục đích T bảo pha ma túy là để cho người khác sử dụng, bản thân N cũng là đối tượng thụ hưởng nên Cơ quan điều tra không xử lý hình sự đối với N. Các đối tượng Trần Văn T, Đinh Văn A, Đặng Thị N, Nguyễn Thị Kiều O có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan Công an đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Đối với Lê Viết M và Hoàng Việt H là nhân viên quán Karaoke V, được giao nhiệm vụ quản lý quán, nhưng không biết việc các đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy ở phòng hát Vip 4 của quán nên Cơ quan điều tra không xử lý. Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho Trần Văn M và người đàn ông chạy xe ôm chở M đi sang nội thành H mua ma túy, quá trình điều tra chưa xác định được tên tuổi, địa chỉ nên không có cơ sở xử lý là có căn cứ.
[9]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào các điểm b, h khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Bùi Văn T 08 (Tám) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 29/3/2022.
- Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Văn M 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 12/7/2022.
- Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 117MT/PC09 chứa chất ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định, 01 thẻ nhựa, 01 đĩa sứ hình bầu dục; tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 tờ tiền 10.000 đồng; tịch thu phát mại sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone đã qua sử dụng gắn sim số 0783319xxx của Bùi Văn T (theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản và Phiếu nhập kho số NK2022/95 ngày 29/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố H).
- Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Các bị cáo Bùi Văn T và Trần Văn M mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014./.
Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 95/2022/HS-ST
Số hiệu: | 95/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tây Hồ - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về