Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 99/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN SỐ 99/2021/HS-ST NGÀY 10/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 11 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:88/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2021, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Bùi Văn C, sinh ngày 04/4/1990 tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Văn H, sinh năm 1961 và bà Đinh Thị T, sinh năm 1960; có vợ đa ly hôn và 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 03/8/2021 đến ngày 06/8/2021 chuyển tạm giam cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm gi ữ Công an huyên Quynh Phu, tỉnh Thái Bình (có mặt).

2. Phạm Viết T, sinh ngày 06/10/1973 tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Thôn N, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Viết N (đã chết), ông N được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Ba và bà Lê Thị B , sinh năm 1947; có vợ đã ly hôn và 01 con sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 03/8/2021 đến ngày 06/8/2021 chuyển tạm giam cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyên Quynh Phu, tỉnh Thái Bình ( mặt).

Người chứng kiến:

- Ông Phạm Văn H, sinh năm 1974,; nơi cư tru : Thôn S, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình (văng măt).

- Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1969; nơi cư tru: Thôn M, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình (văng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 18 giờ 45 phút ngày 02/8/2021, tại khu vực thôn S, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình, tổ công tác Công an huyện Quỳnh Phụ phối hợp với Công an xã A phát hiện Phạm Viết T đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, sơn màu trắng đen bạc, biển kiểm soát X chở sau là Bùi Văn C có biểu hiện liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Khi đươc yêu câu kiêm tra , C thả từ lòng bàn tay phải xuống đường 04 gói giấy trắng có dòng kẻ. Tổ công tác yêu cầu C nhặt lên mang về trụ sở Uỷ ban nhân dân xã A để kiểm tra; tại đây, tiến hành kiểm tra, thu giữ tại lòng bàn tay phải của C 04 gói giấy trắng có dòng kẻ chứa chất bột màu trắng dạng cục. C khai là Heroin C và T góp tiền mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực gần cầu L, thôn X, xã A, huyện Q với giá 400.000 đồng để sử dụng chung. Kiểm tra người T và chiếc xe mô tô trên không phát hiện, thu giữ gì. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của các bị cáo không phát hiện, thu giư gi.

Bản kết luận giám định số 296/KLGĐMT-PC09 ngày 03/8/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Vật chứng gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,3210 gam (Không phẩy ba nghìn hai trăm lẻ mười gam). Heroine STT: 9, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 và Nghị định 60/2020/NĐ-CP ngày 29/5/2020 của C Phủ”.

Tại phiên tòa các bị cáo khai: Do đều nghiện chất ma túy, nên chiêu tôi ngày 02/8/2021, khi C đang ở nhà thì T điều khiển xe mô tô đến rủ và chở C sang huyện Quỳnh Phụ mua Heroin về để sử dụng; trên đường đi, T đưa cho C 200.000 đồng để góp tiền mua ma túy. Khi đi đến khu vực chân cầu L, thôn X, xã A, huyện Q, C bảo T dừng xe đứng chờ còn C đi bộ một đoạn thì gặp và mua của 01 người đàn ông khoảng 50 tuổi, không quen biết 04 gói Heroin giá 400.000 đồng rồi cầm trong lòng bàn tay phải đi ra để T điều khiển xe chở C đi tìm chỗ vắng để cùng sử dụng ma túy. Khi đi đến khu vực cánh đồng gần thôn S, xã A, huyện Q thì bị Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện, bắt quả tang.

Bản cáo trạng số 98/CT-VKSQP ngày 15/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình truy tố Phạm Viết T và Bùi Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với Phạm Viết T và Bùi Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự đôi vơi cac bi cáo; áp dụng thêm khoản 2 Điêu 51 đôi vơi bi cao T, phạt các bị cáo từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/8/2021; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo. Ngoài ra, còn đề nghị về xử lý vật chứng, nghĩa vụ nộp án phí hình sự sơ thẩm và các vấn đề khác theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận gì.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo đều nhân thưc hanh vi cua mình là vi pham phap luât va xin giam nhe hinh phat.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự . Các b ị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Các b ị cáo đã đủ tuổi và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thưc hiên là phạm tội vơi lôi cố ý trưc tiêp, hành vi của các bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa đung như nội dung cáo trạng đã nêu và phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, lơi khai cua ngươi chưng kiên có trong hồ sơ vụ án . Ngoài ra còn được chứng minh bằng các tài liệu , chưng cư sau : Biên ban băt ngươi pham tôi qua tang ; biên bản quản lý, niêm phong đồ vật bị tạm giữ do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ lập; biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định giưa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ vơi Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cùng ngày 02/8/2021; Kết luận giám định số 296/KLGĐMT-PC09 ngày 03/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cùng toàn bộ tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Do đó có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ 45 phút ngày 02/8/2021, tại thôn S, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình, các bị cao Bùi Văn C và Phạm Viết T đã có hành vi cât giâu trái phép trên người 04 gói ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,3210 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của các bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý mua 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.” Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ truy tố và kết luận các bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của các bị cáo thấy: Trong vu an nay, các bị cáo cùng có mục đích mua ma tuy vê sư dung chung ; bị cáo T là người khởi xướng , dùng xe mô tô của gia đình mình chở bị cáo C đi mua ma tuy và chủ động đưa 200.000 đông cho C để góp tiền mua ma tuy ; bị cáo C là người trực tiếp giao dịch mua ma túy và cất giấu ma túy . Do đo đanh giá mức độ phạm tội của bị cáo T cao hơn so vơi bi cao C. Mặc dù các bị cáo không dùng công cụ, thủ đoạn nguy hiểm khi phạm tội mà chỉ tàng trữ ma túy mục đích để thỏa mãn cơn nghiện của bản thân, nhưng ma túy là tệ nạn bị xã hội lên an, ma túy làm ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe, làm suy thoái giống nòi, là nguyên nhân phát sinh nhiêu loại tội phạm khác. Hành vi của các bị cáo ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, C sách của Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng,  giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:  Các bị cáo không bị áp dụng tình tiết  tăng năng trach nhiêm hinh sư   và đươc hương tinh tiêt giam nhe “Ngươi pham tôi thanh khân khai bao ” theo quy đinh tai điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Đối với bị cáoPhạm Viết T có bố đẻ là người có công vơi cách mạng, được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Ba nên đươc ap dung thêm tinh tiêt giam nhe quy đinh taị khoản 2 Điều  51 của Bô luât Hinh sư.

[5] Tư phân tich trên cho thây mưc đô pham tôi cua bi cao T cao hơn bi cáo C, nhưng bi cao T đươc hương thêm môt tinh tiêt giam nhe theo quy đinh tai khoản 2 Điêu 51 Bô luât Hinh sư , do đo mưc an hai bi cao ngang nhau là tương xưng. Xét thấy tội phạm các bị cáo thực hiện thuôc loai tội nghiêm trọng, vì vậy cân thiêt ap dụng hình phạt tù có thời hạn , cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội môt thơi gian nhât đinh , như mưc an đai diên Viên kiêm sat đê nghi để cải tạo, giáo dục các bị cáo và có tác dụng trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không co nghê nghiêp va thu nhâp ôn đinh , vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Do không có căn cứ xác định người đã bán ma túy cho các bị cáo, do đó cơ quan Điều tra không có cơ sở để điều tra xử lý.

[8] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo C 04 gói ma túy, kết quả giám định kết luận là ma túy loại heroine và hoàn trả mẫu vật sau giám định. Xét thấy đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành, do đó cần tịch thu để tiêu hủy là phù hợp với quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với c hiếc xe mô tô biển kiểm soát 17B3-56xyz bị cáo T dùng làm phương tiên đi mua mua tuy đư ợc xác định là tài sản hợp pháp của bà Lê Thị B (mẹ đẻ bị cáo T), bà B không biết việc T đã dùng chiếc xe trên đi mua ma túy, do đo Cơ quan điều tra đã ra quyết định trả lại chiếc xe cho bà B là đung quy định của pháp luật.

[9] Về án phí: Các b ị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Bùi Văn C và Phạm Viết T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, phạt bị cáo Bùi Văn C 01 (Môt) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03 tháng 8 năm 2021.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, phạt bị cáo Phạm Viết T 01 (Môt) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03 tháng 8 năm 2021.

- Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 0,2642 gam (Không phẩy hai nghìn sáu trăm bôn mươi hai gam) mâu vât gưi giam đinh và toàn bộ bao gói thu giư cua Bùi Văn C trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 296/KLGĐMT của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình.

Vật chứng trên đang được chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện và chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình ngày 15/10/2021.

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo Bùi Văn C và Phạm Viết T môi bi cao phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 99/2021/HS-ST

Số hiệu:99/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về