Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 89/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 89/2021/HS-ST NGÀY 13/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 99/2021/ HSST ngày 01 tháng 11 năm 2021, đối với bị cáo.

Họ và tên: Nguyễn Thanh T, sinh năm 1987, tại tỉnh Lâm Đồng. Nơi cư trú: Thôn 4, xã P, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.

Nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T1 và bà Lê Thị M; bị cáo có vợ và 04 người con, lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/6/2021 cho đến nay, (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 28/6/2021, Nguyễn Thanh T đi nhờ xe của một người đi đường đến thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước gặp một người phụ nữ tên Linh (không rõ nhân thân, lý lịch) mua 09 đoạn ống hút bằng nhựa (08 ống màu trắng sọc xanh, 01 ống màu xanh) bên trong có chứa chất ma túy với số tiền 900.000 đồng để sử dụng. Mua xong, T mang ma túy về cất giấu dưới chân tủ tại phòng trọ số 4 thuộc thôn 4, xã P, huyện Bù Đăng của bà Nguyễn Thị T2 cho T thuê (T sống cùng mẹ ruột là bà Lê Thị Mvà vợ là chị Nguyễn Thị T3). Vào 00 giờ 30 phút ngày 29/6/2021, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Bù Đăng phối hợp với Công an xã P kiểm tra bắt quả tang, niêm phong tang vật (ký hiệu M có chữ ký của T) và 01 điện thoại di động loại Iphone X của T để điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại Kết luận giám định số: 197/2021/GĐ-MT ngày 05/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh Bình Phước, kết luận: Tinh thể màu trắng có trong 09 đoạn ống hút (ký hiệu M có chữ ký của T) được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 1,0772 gam.

- Về vật chứng vụ án: Số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh Bình Phước và 01 điện thoại di động loại Iphone X. Cơ quan CSĐT- Công an huyện Bù Đăng đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bù Đăng để phục vụ việc truy tố, xét xử.

Tại Cáo trạng số 90/CT –VKS ngày 22 tháng 10 năm 2021, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát khẳng định nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố. Về tội danh, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành T, phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy;

Về hình phạt, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T từ 15 đến 18 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Về án phí buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Bị cáo Nguyễn Thanh T thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác đối với đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan CSĐT- Công an huyện Bù Đăng, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 28/6/2021, Nguyễn Thanh T đi nhờ xe đến khu vực thành Phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước. Tại đây, bị cáo đã mua 900.000 đồng ma túy của một người phụ nữ tên Linh (không rõ nhân thân, lý lịch) mang về cất giấu ở phòng trọ số 4 thuộc thôn 4, xã P, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước để sử dụng.

Vào 00 giờ 30 phút ngày 29/6/2021, Nguyễn Thanh T bị Cơ quan CSĐT - Công an huyện Bù Đăng phối hợp với Công an xã P kiểm tra bắt quả tang người cùng tang vật.

Kết quả giám định chất màu trắng đựng trong có trong 09 đoạn ống hút là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 1,0772 gam.

Từ phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Nguyễn Thành T đã phạm vào Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

“1. Người nào tàng trữ chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a) ……………………………………………

c) Hêrôin, .., có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Như vậy, nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hại cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, do lối sống buông thả, dẫn đến nghiện ma túy nên mặc dù nhận thức rõ được mọi hành vi liên quan đến ma túy là vi phạm pháp luật, là nguyên nhân có thể gây ra nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác nhưng vẫn cố ý thực hiện.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có con còn nhỏ đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Sau khi cân nhắc mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng, Hội đồng xét xử thấy cần xử bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự thì ngoài hình phạt chính thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, do bị cáo là đối tượng nghiện ma túy có thu nhập không ổn định, có con còn nhỏ nên được miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Cần tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh Bình Phước có ký hiệu 197/2021.

Cần trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Iphone X màu trắng đen di động.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

- Đối với người phụ nữ tên Linh bán ma túy cho T, do không xác định được nhân thân, lý lịch, không có căn cứ xử lý, nên Cơ quan điều tra không đề nghị, do đó VKS không đề cập, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với bà Lê Thị Minh và chị Nguyễn Thị Thu không biết T cất giấu ma túy để sử dụng, không có căn cứ xử lý. Vì vậy, CSĐT không đề nghị xử lý, do đó VKS không đề cập, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với chị Nguyễn Thị Thúy là người ở chung phòng với T, bỏ đi khỏi địa phương chưa làm việc được, nên Cơ quan điều tra tách ra xác minh xử lý sau nếu có căn cứ, do đó VKS không đề cập, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Quan điểm xử lý vụ án của đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa về áp dụng pháp luật và hình phạt là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh T phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T 01 năm, 03 tháng tù (một năm, ba tháng tù), thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2021.

[2] Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì của Phòng kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh Bình Phước có ký hiệu 197/2021.

Tuyên trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Iphone X màu trắng đen di động.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng số 0009886 ngày 15/10/2021 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bù Đăng và Cơ quan CSĐT- Công an huyện Bù Đăng)

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Thanh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 89/2021/HS-ST

Số hiệu:89/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về