TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC KẠN, TỈNH BẮC KẠN
BẢN ÁN 31/2022/HSST NGÀY 31/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 31 tháng 3 năm 2022, tại hội trường xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 34/2022/HSST ngày 04/3/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2022/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:
Nông Văn V (tên gọi khác: Không), sinh ngày 06 tháng 9 năm 1985 tại tỉnh P; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn N, xã D, thành phố B, tỉnh B1; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không ; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nông Văn Ph (đã chết) và bà Lý Thị L; vợ con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 24/12/2013, bị Chủ tịch UBND thị xã B (nay là thành phố B), tỉnh B1 ra Quyết định về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 12 tháng.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/12/2021 đến ngày 20/12/2021, hiện nay đang tại ngoại. Có mặt.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Bà Lý Thị L, sinh năm 1959. Trú tại: Thôn N, xã D, thành phố B, tỉnh B1. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 09 giờ 30 phút ngày 15/12/2021, tại khu vực thôn N, xã D, thành phố B, tỉnh B1, Tổ công tác Đội CSĐT tội phạm về Kinh tế - Ma túy Công an thành phố Bắc Kạn bắt quả tang đối với Nông Văn V có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Kết quả kiểm tra đã phát hiện và tạm giữ: 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 01 gói nilon trong suốt, bên trong tiếp tục có 06 gói đều được gói bằng loại giấy có dòng kẻ, bên trong mỗi gói đều chứa chất bột màu trắng (niêm phong vào phong bì ký hiệu V1) tại túi áo khoác bên trái của Nông Văn V đang mặc; 01 điện thoại di động OPPO màu xanh đen đã qua sử dụng bên trong có gắn 02 sim điện thoại số thuê bao 03256319xx và 09728038xx; 01 xe môtô nhãn hiệu HONDA AIR BLADE màu đen bạc biển kiểm soát 97B1 – 703.xx đã qua sử dụng cùng chìa khóa xe.
Cùng ngày, cơ quan điều tra đã ra lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Nông Văn V tại thôn N, xã D, thành phố B, tỉnh B1. Qua khám xét đã không phát hiện, thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến ma túy.
Nông Văn V khai nhận: Số chất bột màu trắng có trong 06 gói được gói bằng loại giấy có dòng kẻ cơ quan công an đã thu giữ tại túi áo khoác bên trái Việt đang mặc là ma túy loại Heroine của V tàng trữ nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Về nguồn gốc số ma túy Nông Văn V khai: Khoảng 09 giờ ngày 15/12/2021, V điều khiển xe môtô biển kiểm soát 97B1 – 703.26 đi từ nhà đến khu vực cầu D1 thuộc thôn N, xã D1, thành phố B, tỉnh B1 để tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây, Việt đã gặp và trao đổi rồi hỏi mua trực tiếp của một người đàn ông không biết họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể 1.000.000đ (Một triệu đồng) mua ma túy loại Heroine, thì được người này đưa cho 06 gói ma túy được bọc bằng túi nilon để trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng. Sau khi mua bán xong ma túy người đàn ông đi đâu V không biết, còn V cất số ma túy mua được vào trong túi áo khoác bên trái đang mặc rồi điều khiển xe môtô đi về nhà. Trên đường về thì bị tổ công tác Công an thành phố Bắc Kạn bắt quả tang và thu giữ số ma túy cùng một số đồ vật, tài sản khác.
Tiến hành cân riêng số chất bột màu trắng thu giữ của Nông Văn V trong phong bì ký hiệu V1 có khối lượng là 0,32g (không phẩy ba hai gam). Sau khi cân xác định khối lượng, toàn bộ số chất bột màu trắng nêu trên được niêm phong trong phong bì ký hiệu A1 gửi trưng cầu giám định chất ma túy. Phòng bì, bao gói cũ được niêm phong trong phong bì ký hiệu A2 bảo quản theo quy định.
Tại kết luận giám định số 02/KTHS-MT ngày 17/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 0,32g (không phẩy ba hai gam)”.
Tại bản cáo trạng số 11/CT-VKSTPBK ngày 03/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố đối với Nông Văn V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Điều luật có nội dung:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
......
c) Heroine ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.
......
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.” Tại phiên tòa:
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Nông Văn V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự : Xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 15/12/2021 đến ngày 20/12/2021.
Hình phạt bổ sung đề nghị không áp dụng.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T02; 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu A2. Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ màu xanh đen đã qua sử dụng, mật khẩu mở khóa màn hình điện thoại là 691985, điện thoại có số IMEI1 là 86002804115441x, số IMEI2 86002804115440x, bên trong điện thoại có 02 (hai) sim điện thoại số thuê bao 03256319xx và 09728038xx. Trả lại cho bà Lý Thị L 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade màu đen bạc đã qua sử dụng, biển kiểm soát 97B1-703.xx cùng chìa khóa xe.
Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
* Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và thừa nhận việc truy tố, xét xử bị cáo là không oan, đúng người, đúng tội và xin hưởng sự khoan hồng của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Nông Văn Việt khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo thống nhất với các lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có cơ sở khẳng định:
Hồi 09 giờ 30 phút ngày 15/12/2021, tại khu vực thôn N, xã D, thành phố B, tỉnh B1, Tổ công tác Đội CSĐT tội phạm về Kinh tế - Ma túy Công an thành phố Bắc Kạn bắt quả tang Nông Văn V đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,32g (không phẩy ba hai gam) ma túy, loại Heroine với mục đích sử dụng cho bản thân.
Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do vậy, việc truy tố, xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự địa phương, vì vậy cần phải xử lý nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Hội đồng xét xử thấy:
Bị cáo không có tiền án, tiền sự nhưng có nhân thân xấu. Ngày 24/12/2013, bị Chủ tịch UBND thị xã B (nay là thành phố B) ra quyết định về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 12 tháng.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo có bố đẻ là ông Nông Văn Ph được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng.
* Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung "Phạt tiền” theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T02, mặt trước phong bì có dòng chữ: “Vụ: Nông Văn V (1985) tàng trữ trái phép chất ma túy”, mặt sau phong bì có 03 (ba) chữ ký không đọc được và 02 (hai) dấu hình tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn; 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu A2, mặt trước phong bì có dòng chữ: “phong bì, giấy gói cũ lưu hồ sơ vụ án”, mặt sau phong bì có 01 (một) dòng chữ “Nông Văn V”, 01 (một) chữ “Việt”, có 06 (sáu) chữ ký không đọc được và 02 (hai) dấu hình tròn màu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bắc Kạn. Tất cả không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy.
- 01 (một) xe môtô nhãn hiệu Honda Air Blade màu đen bạc đã qua sử dụng, biển kiểm soát 97B1-703.xx, số khung: 6301FZ23116x; số máy: JF63E- 158526x cùng chìa khóa xe. Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã xác định chiếc xe là tài sản của bà Lý Thị L. Việc bị cáo sử dụng xe vào việc đi mua ma túy bà L không biết. Tại phiên tòa bà L đề nghị được nhận lại chiếc xe, chìa khóa xe. Hội đồng xét xử thấy đề nghị của bà L là phù hợp với quy định của pháp luật, nên cần trả lại chiếc xe, chìa khóa xe cho bà L.
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ màu xanh đen đã qua sử dụng, mật khẩu mở khóa màn hình điện thoại là 691985, điện thoại có số IMEI1 là: 86002804115441x; số IMEI2: 86002804115440x; bên trong điện thoại có 02 (hai) sim điện thoại số thuê bao 03256319xx và 09728038xx là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.
* Trong vụ án này còn có người đàn ông đã bán ma túy cho Nông Văn V, do V không biết họ tên, địa chỉ cụ thể nên cơ quan điều tra không đủ cơ sở để xác minh, làm rõ.
* Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
* Tuyên bố bị cáo Nông Văn V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
* Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Nông Văn V 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 15/12/2021 đến ngày 20/12/2021.
* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T02, mặt trước phong bì có dòng chữ: “Vụ: Nông Văn V (1985) tàng trữ trái phép chất ma túy”, mặt sau phong bì có 03 (ba) chữ ký không đọc được và 02 (hai) dấu hình tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn; 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu A2, mặt trước phong bì có dòng chữ: “phong bì, giấy gói cũ lưu hồ sơ vụ án”, mặt sau phong bì có 01 (một) dòng chữ “Nông Văn V”, 01 (một) chữ “V”, có 06 (sáu) chữ ký không đọc được và 02 (hai) dấu hình tròn màu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bắc Kạn.
- Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ màu xanh đen đã qua sử dụng, mật khẩu mở khóa màn hình điện thoại là 691985, điện thoại có số IMEI1 là: 86002804115441x; số IMEI2: 86002804115440x, bên trong điện thoại có 02 (hai) sim điện thoại số thuê bao 03256319xx và 09728038xx.
- Trả lại cho bà Lý Thị L: 01 (một) xe môtô nhãn hiệu Honda Air Blade màu đen bạc đã qua sử dụng, biển kiểm soát 97B1-703.xx, số khung: 6301FZ23116x; số máy: JF63E-158526x cùng chìa khóa xe.
Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận giữa Công an thành phố Bắc Kạn và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn.
* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nông Văn V phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
* Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2022/HSST
Số hiệu: | 31/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về