Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 79/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 79/2022/HS-ST NGÀY 11/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 70/2022/TLST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 6 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Ngọc B, sinh năm 2000 tại Hà Nam; nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố B, phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam; chỗ ở: Tổ dân phố H, phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Bắc T và bà Đào Thị B; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 18/01/2017, Công an phường L, thành phố P ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 375.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 21/4/2022 và chuyển tạm giam từ ngày 27/4/2022 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phủ Lý; có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Anh Nguyễn Tiến V, sinh năm 1991; Trú tại: Tổ 1, phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

- Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1993; Trú tại: Xóm 8, xã K, huyện K, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

* Người làm chứng: Ông Đinh Huy H, sinh năm 1957; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 21/4/2022, Lê Ngọc B điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 90B2-830.18 đi từ nhà mình đến khu vực chợ Q thuộc tổ 3, thị trấn Q, huyện K, tỉnh Hà Nam gặp một người đàn ông khoảng 27 tuổi (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua ma túy và lấy số tiền 1.200.000 đồng đưa cho người đàn ông, người này cầm tiền rồi đưa cho B 01 gói nilon màu trắng, bên trong có các viên nén hình tròn màu đỏ. B biết đó là gói ma túy nên cầm trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe mô tô đi về. Khi B về đến đoạn đường L thuộc thôn 1, xã P, thành phố P thì bị tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố Phủ Lý phát hiện có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra, B đã cho gói nilon chứa chất ma túy vào miệng nhai nhằm tiêu hủy tang vật thì bị phát hiện thu giữ. Lực lượng Công an đã đưa Lê Ngọc B cùng tang vật về trụ sở Công an xã P, thành phố P để lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật.

* Vật chứng, tài sản thu giữ:

- 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa các mảnh viên nén màu đỏ và chất bột màu đỏ, được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, có số IMEI:

353419043549141.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu SH màu đen, biển kiểm soát: 90B2-830.18.

Tại bản kết luận giám định số 159/KL-KTHS ngày 25/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam, kết luận: “Các mảnh viên nén màu đỏ và chất bột màu đỏ trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,375 gam, loại: Methamphetamine”.

Ngày 22/4/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phủ Lý đã thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Lê Ngọc B nhưng không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Tại bản cáo trạng số 79/CT-VKS-PL ngày 14/6/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Lê Ngọc B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý trình bày luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Lê Ngọc B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Xử phạt bị cáo Lê Ngọc B từ 18 đến 24 tháng tù; Bị cáo phạm tội không có mục đích trục lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo;

+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Methamphetamine được hoàn trả sau giám định cùng toàn bao gói; trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen;

+ Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ là hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Lê Ngọc B đã khai, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ chứng cứ để kết luận: Khoảng 20 giờ ngày 21/4/2022, tại đường L thuộc thôn 1, xã P, thành phố P, Lê Ngọc B đang cất giữ trái phép khối lượng 1,375 gam chất ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố Phủ Lý phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ, phù hợp pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Ngày 18/01/2017, bị cáo Lê Ngọc B bị Công an phường L, thành phố P xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có ông nội là Lê Văn D được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng Nhất nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. [5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

- Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy và các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an trong xã hội và là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm nguy hiểm khác. Do vậy cần xem xét mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm chung trong cộng đồng.

- Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản riêng gì, không có công việc và thu nhập ổn định, mục đích tàng trữ ma túy để sử dụng nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vấn đề khác của vụ án:

Về nguồn gốc số ma túy thu giữ của bị cáo: Bị cáo khai mua của một người đàn ông khoảng 27 tuổi (không biết tên tuổi, địa chỉ) với số tiền 1.200.000 đồng tại khu vực chợ Q thuộc tổ 3, thị trấn Q, huyện K, tỉnh Hà Nam. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phủ Lý đã phối hợp với Công an thị trấn Q, huyện K tiến hành xác minh nhưng không xác định được người này. Ngoài lời khai của bị cáo không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên chưa đủ căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[7] Về xử lý vật chứng đã thu giữ:

- Đối với số ma túy loại Methamphetamine được hoàn trả sau giám định cùng toàn bộ bao gói là vật chứng của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu NIKIA màu đen thu giữ của bị cáo, là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại bị cáo.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu đen, biển kiểm soát: 90B2- 830.18 thu giữ của bị cáo. Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Tiến V. Chiếc xe này anh V cho bị cáo mượn để sử dụng nhưng anh V không biết bị cáo sử dụng chiếc xe trên để thực hiện hành vi phạm tội. Anh V đã có đơn xin lại chiếc xe trên nên ngày 10/6/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho anh Nguyễn Tiến V là phù hợp pháp luật.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 50 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Căn cứ Luật Phí và Lệ phí của Quốc hội.

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Lê Ngọc B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Lê Ngọc B 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/4/2022.

3. Xử lý vật chứng đã thu giữ:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì đã niêm phong dán kín mặt trước có ghi mẫu vật hoàn trả QT01, số: 159/KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam.

- Trả lại bị cáo Lê Ngọc B: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu đen, có số IMEI: 353419043549141.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng như trong biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng lập ngày 16/6/2022 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý).

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lê Ngọc B phải nộp: 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo bản án: Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

117
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 79/2022/HS-ST

Số hiệu:79/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về