Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 75/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 75/2022/HS-ST NGÀY 01/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 57/2022/HSST ngày 01 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo: Trần Ngọc S, sinh ngày 03/9/1971 tại T. Nơi cư trú: Thôn T1, xã Q, huyện K, tỉnh T. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 07/12; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Đức L (đã chết) và bà Phạm Thị N; vợ: Trần Thị H (đã ly hôn); Con: Có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/4/2022 đến ngày 22/4/2022 chuyển tạm giam đến nay.

* Người chứng kiến:

- Anh Trần Ngọc A, sinh năm 1975; nơi cư trú: Số nhà 147, tổ 17, phường K1, thành phố T, tỉnh T.

- Anh Trịnh Quốc T2, sinh năm 1986; nơi cư trú: Số nhà 37, tổ 14, phường K1, thành phố T, tỉnh T.

(Tại phiên tòa có mặt bị cáo, vắng mặt anh A, anh T2).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 20 phút ngày 19/4/2022, Trần Ngọc S điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS màu đen trắng, biển số 17B1-750.28 từ nhà đến một ngõ nhỏ thuộc đường P, tổ 17, phường K1, thành phố T với mục đích mua ma túy để sử dụng. Tại đây S gặp và mua của một nam giới không biết tên tuổi, địa chỉ 200.000 đồng được 01 túi ma túy rồi đi tìm nơi sử dụng. Khi S đi đến ngã tư đường L1 - N1, tổ 20, phường K1, thành phố T thì bị tổ công tác của Công an thành phố Thái Bình phát hiện và yêu cầu kiểm tra. Trước sự chứng kiến của anh Trần Ngọc A và anh Trịnh Quốc T2, S tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 gói ma túy được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục, S khai nhận là Heroine của S mua để sử dụng. Tổ công tác quản lý của S 01 chiếc điện thoại Nokia 105 màu xanh đen, 01 chiếc xe mô tô biển số 17B1 - 750.28.

Bản kết luận giám định số 125/KL-KTHS (MT) ngày 20/4/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: Mẫu vật quản lý của Trần Ngọc S gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,1475 gam.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi của mình như bản cáo trạng đã nêu. Bản cáo trạng số 74/CT-VKSTPTB ngày 31/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị: Xử phạt bị cáo mức án từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 19/4/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy Heroine còn lại sau giám định. Trả lại bị cáo chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh đen, đã cũ nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án. Chấp nhận việc cơ quan Điểu tra đã trả cho anh Nguyễn Thế Võ chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu đen trắng, biển số 17B1 - 750.28.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Bị cáo không bào chữa và không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố vụ án được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được chứng minh bằng:

Biên bản bắt người phạm tội quả tang. Biên bản niêm phong vật chứng. Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ. Kết luận giám định số 125/KL- KTHS (MT) ngày 20/4/2022. Biên bản ghi lời khai của người chứng kiến. Các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 19/4/2022, tại khu vực ngã tư đường L1 - N1, tổ 20, phường K1, thành phố T, Trần Ngọc S có hành vi tàng trữ trái phép 0,1475 gam ma túy, loại Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân.

Như vậy hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...

[3] Về tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năm hối cải, bố đẻ bị cáo được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhất, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy được định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần thiết phải xử phạt mức hình phạt nghiêm minh với hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử cần xem xét khi quyết định hình phạt.

[7] Về vật chứng của vụ án:

- Số Heroine còn lại sau giám định là 0,1020 gam thu giữ của bị cáo, đây là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

- Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh đen đã cũ không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo.

- Xác định chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu đen trắng, biển số 17B1 - 750.28 là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Thế Võ là cháu của bị cáo. Anh Võ cho bị cáo mượn chiếc xe để làm phương tiện đi lại từ năm 2021, anh Võ không biết bị cáo sử dụng chiếc xe để đi mua ma túy. Ngày 05/5/2022, cơ quan Điều tra Công an thành phố Thái Bình đã trả lại cho anh Võ chiếc xe là đúng quy định.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai mua của người nam giới không biết tên, địa chỉ tại một ngõ nhỏ thuộc đường P, tổ 17, Phường K1, thành phố Thái Bình nên cơ quan Điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự;

- Căn cứ Điều 106, Điều 135, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Ngọc S 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 19/4/2022.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy số heroine còn lại sau giám định là 0,1020 gam trong phong bì niêm phong số 125/KL-KTHS (MT) ngày 20/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

- Trả lại bị cáo chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh đen, đã cũ.

(Vật chứng Công an thành phố Thái Bình đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình ngày 01/6/2022).

4. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 01/7/2022./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

557
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 75/2022/HS-ST

Số hiệu:75/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về