Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 75/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 75/2022/HS-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30/6/2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện S.D, tỉnh T.Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 70/2022/TLST-HS, ngày 27 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2022/QĐXXST-HS, ngày 17 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

P.V.T, sinh ngày 25/9/1987 tại huyện S.D, tỉnh T.Q; Nơi cư trú: Thôn V.T, xã T.T, huyện S.D, tỉnh T.Q; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: P.V.T, sinh năm 1960 và bà: N.T.C, sinh năm 1964; vợ, con: Chưa có; Gia đình có 4 anh chị em, bị cáo là con thứ hai.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 11/10/2017 bị Công an huyện S.D ra Quyết định số 287/QĐ-XPHC xử phạt vi phạm hành chính đối với P.V.T về hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. (Ngày 19/10/2017 chấp hành xong, phạt tiền 3.500.000đ) Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/3/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh T.Q (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 09/3/2022, P.V.T là người sử dụng ma túy một mình điều khiển xe mô tô, biển kiểm soát 16L1-9644 (xe của T) đến khu vực bến xe khách thành phố T.Q, tỉnh T.Q mục đích tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Tại khu vực bến xe T gặp và mua được 01 gói ma túy gói bắng túi nilon màu trắng của một người đàn ông không xác định được tên, tuổi, địa chỉ với số tiền 200.000đ. Sau khi mua được ma túy, T điều khiển xe mô tô đến khu vực đồi keo thuộc xã Thái Bình, huyện Yên Sơn, tỉnh T.Q lấy một ít ma túy ra sử dụng bằng hình thức đốt hít vào cơ thể, số còn lại T cất giấu vào túi quần bên trái phía sau đi về nhà, khi đi đến đoạn đường thuộc tổ dân phố Quyết Thắng, thị trấn S.D, huyện S.D thì bị tổ công tác Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S.D phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 16 giờ 45 phút, cùng ngày, P.V.T tự giác giao nộp gói ma túy bên ngoài gói bằng nilon màu trắng, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng.

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy bên trong cơ thể P.V.T, kết quả (+) dương tính.

Kết luận giám định số 341/GĐ - KTHS ngày 13/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T.Q. Kết luận: Mẫu vật thu giữ của P.V.T gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,233g (không phẩy hai ba ba gam).

Về vật chứng: Cơ quan CSĐT Công an huyện S.D tạm giữ 01 phong bì bên trong có chứa ma túy đã được niêm phong và 01 xe mô tô WAVE, biển kiểm soát 16L1-9644 đã qua sử dụng.

Tại Cáo trạng số 70/CT-VKSSD, ngày 26/5/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện S.D đã truy tố P.V.T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

- Tên bố: Bị cáo P.V.T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo P.V.T từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (09/3/2022).

Do bị cáo không có tài sản nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, bên trong có chứa chất ma túy (đã giám định) mặt sau trên các mép dán có chữ ký của P.V.T, các thành phần tham gia và hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T.Q.

Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô biển kiểm soát 16L1-9644 nhưng tạm giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.

- Về án phí, quyền kháng cáo: Buộc bị cáo phải chịu tiền án phí và Tên quyền kháng cáo của bị cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất.

Về tội danh: Căn cứ vào lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa; căn cứ vào Biên bản bắt người phạm tội qủa tang, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 16 giờ 45 phút ngày 09/3/2022 tại đoạn đường thuộc tổ dân phố Quyết Thắng, thị trấn S.D, huyện S.D, tỉnh T.Q, P.V.T có hành vi tàng trữ trái phép 0,233g (không phẩy hai ba ba gam) mục đích để sử dụng cho bản thân.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện S.D truy tố P.V.T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Do vậy, cần phải có mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và đường lối xử lý đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS cần áp dụng cho bị cáo.

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã được phân tích ở trên, Hội đồng xét xử xét mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

Quá trình điều tra xác định bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[4] Về vật chứng: Đối với 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, bên trong có chứa chất ma túy (đã giám định) mặt sau trên các mép dán có chữ ký của P.V.T, các thành phần tham gia và hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T.Q. Đây là vật chứng của vụ án thuộc danh mục Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

01 xe mô tô biển kiểm soát 16L1-9644 là tài sản của bị cáo, bị cáo sử dụng hàng ngày nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.

[5] Các vấn đề khác: Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo tại khu vực bến xe khách thành phố T.Q, do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để điều tra xử lý.

Về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tại khu vực xã Thái Bình, huyện Yên Sơn, tỉnh T.Q, Cơ quan CSĐT Công an huyện S.D đã chuyển tài liệu đến Công an huyện Yên Sơn, tỉnh T.Q đề nghị xử phạt theo thẩm quyền.

Do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S.D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện S.D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo bản án:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Căn cứ: Điều 47 Bộ luật hình sự; Các Điều 106, 136, 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;

Tên bố: Bị cáo P.V.T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

1. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo P.V.T 01(một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (09/3/2022).

2. Về vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đã niêm phong còn nguyên vẹn, bên trong có chứa ma túy (đã giám định), đặc điểm, tình trạng, khối lượng được miêu tả trong biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định. Bên ngoài, mặt sau trên các mép dán có hình dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T.Q, chữ ký xác nhận của thành phần tham gia niêm phong và P.V.T. Mặt trước phong bì ghi “Tang vật vụ P.V.T, giám định ngày 09/3/2022”.

- Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô, nhãn hiệu WAVE, biển kiểm soát 16L1- 9644, màu sơn đỏ, không có yếm, xe cũ đã qua sử dụng nhưng tạm giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 31/5/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S.D và Chi cục Thi hành án dân sự huyện S.D) 3. Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày Tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 75/2022/HS-ST

Số hiệu:75/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về