Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 73/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 73/2022/HS-ST NGÀY 16/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện Thủy Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 63/2022/TLST-HS ngày 20 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2022/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Văn N, sinh ngày 14 tháng 8 năm 1986 tại thành phố Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn L, xã L1, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T1 và bà Nguyễn Thị N1; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 176/2005/HSST ngày 28 tháng 9 năm 2005, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt Lê Văn N 04 năm tù về tội: “Cố ý gây thương tích” (đã được xóa án tích); Bản án hình sự sơ thẩm số 113/2015/HSST ngày 25 tháng 9 năm 2015, Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái xử phạt Lê Văn N 12 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản” (đã được xóa án tích); bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 03 tháng 4 năm 2022, chuyển tạm giam từ ngày 12 tháng 4 năm 2022 đến nay; có mặt.

- Người chứng kiến: Bà Lê Thị N2, anh Đinh Như D.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 17 giờ 30 phút ngày 03 tháng 4 năm 2022, tại nhà của Lê Văn N ở thôn L, xã L1, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng, qua công tác kiểm tra các đối tượng nghiện tại địa phương, Công an xã L kết hợp Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Thủy Nguyên phát hiện bắt quả tang Lê Văn N có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Thu giữ trên giường trong phòng ngủ, bên cạnh vị trí N ngồi 01 chiếc ví giả da màu đen, trong ngăn ví có 01 gói giấy màu trắng và 01 gói giấy màu bạc bên trong đều chứa chất bột màu trắng (nghi chất ma túy); 01 căn cước công dân số 03108601xxx1 mang tên Lê Văn N.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê Văn N không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Tại Bản kết luận giám định số 133/KLGĐ-MT ngày 12 tháng 4 năm 2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng thu của N là ma túy, có khối lượng 0,5 gam, là loại Heroine.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Văn N khai: Do bản thân nghiện ma túy Heroine nên N thường xuyên mua ma túy về để sử dụng. Khoảng 10 giờ ngày 03 tháng 4 năm 2022, N một mình đi sang khu vực đường tàu nội thành Hải Phòng mua của một người đàn ông không quen biết 02 gói ma túy Heroine với giá 300.000 đồng. N cho số ma túy vừa mua vào trong ví của mình và đi về nhà, bỏ một phần ma túy trong gói giấy bạc ra để sử dụng, số ma túy còn lại N cất vào trong ví, để ở cạnh giường rồi đi ngủ. Đến 17 giờ 30 phút cùng ngày thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn N khai nhận hành vi mua trái phép chất ma túy để sử dụng như nội dung trên, số tiền mua ma túy là do bị cáo lao động mà có. Một ví giả da Công an thu giữ là của bị cáo, bị cáo không yêu cầu nhận lại.

Tại Cáo trạng số 74/CT-VKSTN ngày 19 tháng 7 năm 2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên truy tố bị cáo Lê Văn N về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Sau phần xét hỏi công khai tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, nêu các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Văn N phạm tội: "Tàng trữ trái phép trái phép chất ma túy". Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Văn N từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, 01 ví giả da màu đen.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì nên các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo Lê Văn N tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai những người chứng kiến bà Lê Thị N2, anh Đinh Như D, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng thu giữ, phù hợp với Kết luận giám định số 133/KLGĐ-MT ngày 12 tháng 4 năm 2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng, kết hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ xác định: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 03 tháng 4 năm 2022, tại nhà của bị cáo Lê Văn N ở thôn L, xã L1, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng, bị cáo Lê Văn N có hành vi cất giấu trái phép 0,5 gam ma túy loại Heroine nhằm mục đích để sử dụng. Theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính Phủ thì Heroine là chất ma túy thuộc danh mục I, STT 09, danh mục các chất ma túy do Chính phủ ban hành. Bị cáo Lê Văn N là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, hành vi cất giấu 0,5 gam ma túy Heroine trái phép mục đích để sử dụng của bị cáo Lê Văn N đã phạm vào tội:“Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên truy tố và đề nghị áp dụng đối với bị cáo Lê Văn N theo tội danh và điều luật như trên là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật.

[4] Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý không chỉ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, trí lực của con người, mà từ ma tuý đã làm phát sinh nhiều tội phạm khác và là một trong những nguyên nhân làm lan truyền căn bệnh HIV/AIDS, là hiểm họa đối với mọi gia đình và xã hội. Chính vì vậy, đối với hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về nhân thân: Bị cáo Lê Văn N có 02 tiền án tuy đã được xóa án nhưng bị cáo vẫn là người có nhân thân xấu.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lê Văn N không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lê Văn N thành khẩn khai báo, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[8] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo Lê Văn N không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, thực hiện hành vi phạm tội không mang tính chất vụ lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về vật chứng: Lượng ma túy còn lại sau giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy. Một ví giả da màu đen thuộc sở hữu của bị cáo, có giá trị sử dụng không lớn, tại phiên tòa, bị cáo không yêu cầu nhận lại nên tịch thu tiêu hủy.

[10] Về vấn đề khác: Đối với 01 căn cước công dân số 03108601xxx1 mang tên Lê Văn N, Công an huyện Thủy Nguyên tiếp tục tạm giữ xử lý sau.

[10.1] Trong vụ án này còn có đối tượng bán trái phép chất ma túy cho bị cáo Lê Văn N, quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi địa chỉ nên không có căn cứ xử lý.

[11] Về án phí: Bị cáo Lê Văn N phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách nhà nước.

[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo Lê Văn N có quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Văn N 27 (Hai mươi bẩy) tháng tù về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo Lê Văn N tính từ ngày 03 tháng 4 năm 2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Lê Văn N.

Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, 01 ví giả da màu đen.

(Đặc điểm Vật chứng theo Biên Bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18 tháng 7 năm 2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thủy Nguyên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên).

Về án phí: Căn cứ khoản 2, Điều 135; khoản 2, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016 buộc bị cáo Lê Văn N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành án tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

89
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 73/2022/HS-ST

Số hiệu:73/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về