Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 63/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 63/2021/HS-ST NGÀY 25/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

- Ngày 25 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Công Đông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 56/2021/HSST ngày 22 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2021 đối với:

- Bị cáo: LÊ HUỲNH NHẬT D, sinh ngày xxxx. Giới tính: Nam.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp N, xã P, huyện G, tỉnh T; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông Lê Minh H, sinh năm xxxx và bà Huỳnh Thị Cẩm H, sinh năm xxxx; Vợ, con chưa có; Tiền án, tiền sự: Không có; Bị cáo bị tạm giữ ngày 23/8/2021, tạm giam ngày 25/8/2021 cho đến nay tại Nhà tạm giữ - Công an huyện Gò Công Đông; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1/ Lê Minh H, sinh năm xxxx; Trú tại: ấp N, xã P, huyện G, tỉnh Tiền Giang (có mặt).

2/ Huỳnh Thị T, sinh năm xxxx; Trú tại: ấp N, xã P, huyện G, tỉnh T(có mặt).

- Người làm chứng: Nguyễn Văn H, sinh năm xxxx; Trú tại: ấp N, xã P, huyện G, tỉnh T (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào 14 giờ 50 phút ngày 23/8/2021, Công an huyện Gò Công Đông phối hợp Công an xã Phước Trung làm nhiệm vụ tại Chốt kiểm soát phòng chống dịch Covid 19 thuộc ấp Nghĩa Chí, xã Phước Trung, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang phát hiện Lê Huỳnh Nhật D, sinh ngày xxxx, ngụ ấp N, xã P, huyện G, tỉnh T đang điều khiển xe mô tô biển số 63B7 - 463.xx đi ngang qua chốt có biểu hiện nghi vấn nên Lực lượng Công an tiến hành chặn dừng xe để kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện Lê Huỳnh Nhật D đang tàng trữ 01 (một) đoạn ống nhựa được hàn kín hai đầu bên trong có chứa chất tinh thể rắn nghi là ma túy tổng hợp ở dưới đế chiếc dép phía bên phải của D đang mang ở chân.

Theo lời khai của bị cáo D 01 (một) đoạn ống nhựa được hàn kín hai đầu bên trong có chứa chất tinh thể rắn là ma túy đá. Mục đích bị cáo D tàng trữ số ma túy đá trên là để sử dụng.

Tang vật thu giữ gồm:

- 01 (một) đoạn ống nhựa được hàn kín hai đầu bên trong có chứa chất tinh thể rắn nghi là ma túy tổng hợp;

- 01 (một) đôi dép cao su màu đỏ, đế trong màu đen, thân dép có in chữ "FASHION", đế dép có in số "42 TBB-08";

- 01 (một) xe mô tô hai bánh biển số 63B7 - 463.xx, nhãn hiệu AIR BLADE, màu đỏ bạc đen;

- 01 (một) điện thoại di động màu xám, dạng bàn phím, hiệu Nokia;

- 01 (một) điện thoại di động, dạng cảm ứng, hiệu Samsung J8;

- Tiền Việt Nam: 260.000 đồng (Hai trăm sáu mươi nghìn đồng).

Tại Kết luận giám định số 183/KLGĐ-PC09 ngày 25/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tiền Giang: Các mẫu tinh thể màu trắng trong 01 (một) đoạn ống nhựa được hàn kín hai đầu được niêm phong trong một bì thư có các chữ ký ghi tên Lê Huỳnh Nhật D, Huỳnh Văn Dũng, Võ Minh Tuấn, Võ Văn Hòa, chữ ký in tên Đại úy Nguyễn Quốc Việt và hình dấu tròn màu đỏ ghi CÔNG AN XÃ PHƯỚC TRUNG, CÔNG AN HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG, TỈNH TIỀN GIANG; gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2419 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định và vật chứng của vụ án.

Bản cáo trạng số 57/CT-VKS.GCĐ ngày 20/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang truy tố hành vi của bị cáo Lê Huỳnh Nhật D đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Lê Huỳnh Nhật D từ 12 tháng tù đến 18 tháng tù;

Về vật chứng:

- Đề nghị Hội đồng xét xử, tịch thu tiêu hủy:

+ Một bì thư được niêm phong ký hiệu vụ số: 183 ghi ngày 25 tháng 8 năm 2021; có các chữ ký in họ tên: Huỳnh Thị Diệu Hương (Giám định viên), Huỳnh Tấn Liễu (Trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên: Phan Văn Thái (Bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ - CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG. Bên trong có 01 (một) gói nylon màu trắng được hàn kín 0,2128 gam là ma túy còn lại sau giám định, loại Methamphetamine và 01 (một) vỏ đoạn ống nhựa màu vàng đã bị cắt một đầu để lấy mẫu giám định.

+ 01 (một) đôi dép màu đỏ, có miếng đế màu đen, thân dép có in chữ "FASHION", đế dép có in số "42TBB-08";

- Trả lại cho bị cáo Lê Huỳnh Nhật D:

+ 01 (một) điện thoại di động dạng cảm ứng, nhãn hiệu Samsung J8, IMEI:

359051/09/182191/8, IMEI: 359052/09/182191/6, không kiểm tra chất lượng bên trong;

+ Tiền Việt Nam: 260.000 đồng (Hai trăm sáu mươi nghìn đồng).

- Trả lại cho bà Huỳnh Thị T: 01 (một) điện thoại di động dạng bàn phím, nhãn hiệu Nokia, IMEI 1:35518/05/155270/3, IMEI 2:355518/05/155271/3, không kiểm tra chất lượng bên trong.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng truy tố, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Công Đông đã truy tố đối với bị cáo. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó đã có cơ sở xác định:

Vào 14 giờ 50 phút ngày 23/8/2021, Công an huyện Gò Công Đông phối hợp Công an xã Phước Trung làm nhiệm vụ tại Chốt kiểm soát phòng chống dịch Covid 19 thuộc ấp Nghĩa Chí, xã Phước Trung, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang tiến hành kiểm tra bắt quả tang Lê Huỳnh Nhật D có hành vi tàng trữ trái phép 0,2419 gam ma túy (loại Methamphetamine) với mục đích sử dụng. Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “ Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;” Như vậy hành vi của bị cáo như nhận định trên, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, đây là một tệ nạn xã hội mà Nhà nước ta kiên quyết bài trừ và cũng là một trong những nguyên nhân gây ra các loại tội phạm nghiêm trọng khác... Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật sẽ bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc, nhưng chỉ vì để thỏa mãn cơn nghiện, nên bị cáo bất chấp pháp luật cố ý thực hiện tội phạm. Do đó, cần có mức án nghiêm khắc đối với bị cáo để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3] Đối tượng tên “Hưởng” mà bị cáo D khai nhận đã mua ma túy tại khu vực ấp Trại Ngang, xã Tăng Hòa, huyện Gò Công Đông. Qua xác minh tại khu vực ấp Trại Ngang, xã Tăng Hòa, huyện Gò Công Đông không có người nào tên Hưởng có biểu hiện nghi vấn về hành vi liên quan đến ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gò Công Đông chưa làm việc được, khi làm việc được có căn cứ sẽ xử lý sau.

[4] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

- Cần tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau không còn giá trị sử dụng:

+ Một bì thư được niêm phong ký hiệu vụ số: 183 ghi ngày 25 tháng 8 năm 2021; có các chữ ký in họ tên: Huỳnh Thị Diệu Hương (Giám định viên), Huỳnh Tấn Liễu (Trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên: Phan Văn Thái (Bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ - CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG. Bên trong có 01 (một) gói nylon màu trắng được hàn kín 0,2128 gam là ma túy còn lại sau giám định, loại Methamphetamine và 01 (một) vỏ đoạn ống nhựa màu vàng đã bị cắt một đầu để lấy mẫu giám định.

+ 01 (một) đôi dép màu đỏ, có miếng đế màu đen, thân dép có in chữ "FASHION", đế dép có in số "42TBB-08", bị cáo D dùng để cất giấu ma túy.

- Trả lại cho bị cáo D:

+ 01 (một) điện thoại di động dạng cảm ứng, nhãn hiệu Samsung J8, IMEI:

359051/09/182191/8, IMEI: 359052/09/182191/6, không kiểm tra chất lượng bên trong;

+ Tiền Việt Nam: 260.000 đồng (Hai trăm sáu mươi nghìn đồng).

- Đối với 01 (một) điện thoại di động dạng bàn phím, nhãn hiệu Nokia, không kiểm tra chất lượng bên trong là của bà Huỳnh Thị T. Bà T để sử không biết bị cáo D dùng để liên hệ mua ma túy về sử dụng. Xét đây là tài sản hợp pháp của bà T nên cần trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với 01 (một) xe mô tô hai bánh biển số 63B7 - 463.xx hiệu Honda loại Ablide. Qua xác minh được biết, xe mô tô trên là của ông H (cha ruột Lê Huỳnh Nhật D) đứng tên sở hữu. Tuy nhiên, việc D dùng xe mô tô trên để mua ma túy về sử dụng, ông H không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra trao trả cho chủ sở hữu là ông H là có căn cứ.

[5] Lời luận tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã truy tố. Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gò Công Đông, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Công Đông, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 135 Bộ Luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố các bị cáo Lê Huỳnh Nhật D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

* Xử phạt: Bị cáo Lê Huỳnh Nhật D 1 (một) năm (03) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/8/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy:

+ Một bì thư được niêm phong ký hiệu vụ số: 183 ghi ngày 25 tháng 8 năm 2021; có các chữ ký in họ tên: Huỳnh Thị Diệu Hương (Giám định viên), Huỳnh Tấn Liễu (Trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên: Phan Văn Thái (Bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ - CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG. Bên trong có 01 (một) gói nylon màu trắng được hàn kín 0,2128 gam là ma túy còn lại sau giám định, loại Methamphetamine và 01 (một) vỏ đoạn ống nhựa màu vàng đã bị cắt một đầu để lấy mẫu giám định.

+ 01 (một) đôi dép màu đỏ, có miếng đế màu đen, thân dép có in chữ "FASHION", đế dép có in số "42TBB-08".

- Trả lại cho bị cáo D:

+ 01 (một) điện thoại di động dạng cảm ứng, nhãn hiệu Samsung J8, IMEI: 359051/09/182191/8, IMEI: 359052/09/182191/6, không kiểm tra chất lượng bên trong;

+ Tiền Việt Nam: 260.000 đồng (Hai trăm sáu mươi nghìn đồng).

- Trả lại cho bà T: 01 (một) điện thoại di động dạng bàn phím, nhãn hiệu Nokia, IMEI 1: 35518/05/155270/3, IMEI 2: 355518/05/155271/3, không kiểm tra chất lượng bên trong.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/8/2021)

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Lê Huỳnh Nhật D phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

347
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 63/2021/HS-ST

Số hiệu:63/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Đông - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về