Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 54/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK R’LẤP, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 54/2022/HS-ST NGÀY 21/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 9 năm 2022, tại điểm cầu trung tâm: Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông và điểm cầu thành phần: Nhà tạm giữ Công an huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số: 58/2022/TLST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2022, đối với bị cáo:

Giàng A V, sinh năm 1982 tại tỉnh Yên Bái; nơi cư trú: Thôn 5, xã A, huyện B, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: H’Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Giàng A C (Chết) và bà Chang Thị T (Chết). Bị cáo có vợ là Vừ Thị I, sinh năm 1983 và 01 con sinh năm 2000; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06- 6-2022, đang bị tạm giam - Có mặt tại điểm cầu thành phần nhà tạm giữ Công an huyện C, tỉnh Đắk Nông.

- Người bào chữa: Ông Phạm Quốc H, Luật sư Công ty Luật TNHH A - Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh; Địa chỉ: Đường 23/3, TDP 01, phường N, TP. G, tỉnh Đắk Nông – Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Tráng Thị V, sinh năm 1985; Địa chỉ: Thôn 6, xã H, huyện B, tỉnh Đắk Nông – Có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

1. Ông Hoàng Thiên Q – Chiến sỹ nhà tạm giữ Công an huyện C, tham gia tại điểm cầu thành phần nhà tạm giữ Công an huyện C, tỉnh Đắk Nông.

2. Ông Phan Xuân H – Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tham gia tại điểm cầu thành phần nhà tạm giữ Công an huyện C, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Giàng A V là đối tượng nghiện ma túy, đến làm thuê tại thôn Q, xã J, huyện Đắk R’lấp từ đầu tháng 5/2022.

Vào sáng ngày 06-6-2022, V điều khiển xe mô tô Biển kiểm soát 48G1- xxxxx đi từ thôn Q, xã J đến khu vực làng Mông thuộc xã Đ, huyện T, tỉnh Đăk Nông để mua ma túy về sử dụng. Khi đến nơi, V gặp một người đàn ông không quen biết (không rõ nhân thân, lai lịch). Qua nói chuyện V biết người này có bán ma túy nên hỏi mua 3.500.000đồng ma túy Heroin để sử dụng, người này đồng ý và cầm số tiền 3.500.000đồng của V rồi nói V đứng đợi, khoảng 15 phút sau người này quay lại đưa cho V 01 găng tay bằng vải màu xám phần viền găng tay màu xanh. V mở găng tay kiểm tra thì thấy bên trong có 01 gói nilon màu đen túm lại và hàn kín, V ngầm hiểu bên trong có chứa ma túy. V cầm lấy chiếc găng tay có chứa gói ma túy, cất giấu vào bên hông lưng quần đang mặc, sau đó V điều khiển xe mô tô đi về nhà. Khi đến đoạn đường trước trung tâm thương mại huyện C (thuộc TDP1, thị trấn K, huyện C) thì bị lực lượng Công an huyện C phối hợp với Công an tỉnh Đắk Nông kiểm tra phát hiện bắt quả tang V đang có hành vi tàng trữ trái phép ma túy và thu giữ số ma túy trên. Tại Cơ quan điều tra, V đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng. Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của V tại thôn Q, xã J, huyện C không phát hiện, thu giữ tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số: 84/KL-KTHS ngày 13/6/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận: Chất rắn màu trắng đựng trong 01 gói nilon màu hồng được niêm phong trong bì thư ký hiệu “MẪU VẬT” gửi giám định là chất ma túy, có khối lượng mẫu là 3,7481 gam, là Heroine. Hoàn lại sau giám định là 3,4299 gam Heroine.

Cáo trạng số: 59/CT-VKS-ĐL ngày 31-8-2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp quyết định truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Đăk R’Lấp để xét xử Giàng A V về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa bị cáo Giàng A V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng và thừa nhận Cáo trạng của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng, không oan.

Kết quả tranh luận tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo. Sau khi xem xét các tình tiết buộc tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Giàng A V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Giàng A V từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Về vật chứng của vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Chấp nhận Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã ra quyết định xử lý trả lại xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX màu xám đen biển kiểm soát 48G1-xxxxx là tài sản hợp pháp của bà Tráng Thị V và trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu đen, bên trong có gắn thẻ sim số 035.284.xxxxx là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

- Tịch thu, tiêu hủy chất ma túy Heroine có khối lượng 3,4299 gam (mẫu vật hoàn lại sau giám định) là vật chứng của vụ án.

Luật sư bào chữa cho bị cáo:

Về tố tụng: Cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đầy đủ và đúng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đề nghị áp dụng là hai tình tiết giảm nhẹ; phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt; có chú ruột Giàng A M được nhà nước tặng thưởng huy chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước; hoàn cảnh gia đình bị cáo có nhiều khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình có vợ là Vừ Thị D đang có bệnh nặng không có khả năng lao động.

Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1, Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 cho bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Tại phiên tòa bị cáo Giàng A V đồng ý với luận cứ bào chữa của Luật sư và không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk R’Lấp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai, Hội đồng xét xử đủ căn cứ xác định: Vào lúc 15 giờ 20 phút ngày 06-6-2022, tại đoạn đường thuộc Tổ dân phố 01, thị trấn K, huyện C, tỉnh Đăk Nông, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C đã phát hiện, bắt quả tang Giàng A V đang có hành vi tàng trữ trái phép 3,7481 gam chất ma túy nhằm mục đích sử dụng.

Căn cứ Bản kết luận giám định số: 84/KL-KTHS ngày 13/6/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận: Chất rắn màu trắng đựng trong 01 gói nilon màu hồng được niêm phong trong bì thư ký hiệu “MẪU VẬT” gửi giám định là chất ma túy, có khối lượng mẫu là 3,7481 gam, là Heroine.

Do vậy, có đủ căn cứ để kết luận bị cáo phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật “Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

… c) Heroine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

…” Xét tính chất vụ án do bị cáo gây ra là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến xâm phạm đến sự độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, ảnh hưởng đến sức khỏe con người, đem lại những hậu quả rất nghiêm trọng, bị pháp luật nghiêm cấm và xã hội lên án. Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã một thời gian thì mới đủ tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[3]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là người có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự; Bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo. Gia đình bị cáo có nhiều khó khăn (vợ bị cáo đang bị bệnh); Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[4]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Chấp nhận Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã ra quyết định xử lý trả lại xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX màu xám đen biển kiểm soát 48G1- xxxxx là tài sản hợp pháp của bà Tráng Thị V do bà V không biết bị cáo sử dụng xe mô tô vào mục đích phạm tội và trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu đen, bên trong có gắn thẻ sim số 035.284.xxxxx là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Tịch thu, tiêu hủy chất ma túy Heroine có khối lượng 3,4299 gam (mẫu vật hoàn lại sau giám định) là vật chứng của vụ án.

[5]. Xét quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt là phù hợp cần chấp nhận.

[6]. Xét luận cứ bào chữa cho bị cáo về các tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận. Riêng đối với yêu cầu xác định tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự thành hai tình tiết giảm nhẹ để áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là không đúng quy định của Bộ luật hình sự và không đảm bảo được mục đích răn đe của hình phạt.

[7]. Về án phí: Bị cáo Giàng A V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Giàng A V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Giàng A V 02 (Hai) năm 06(Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 06-6-2022.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Chấp nhận Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã ra quyết định xử lý trả lại xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX màu xám đen biển kiểm soát 48G1- xxxxx là tài sản hợp pháp của bà Tráng Thị V. Quá trình điều tra xác định bà V không biết bị cáo sử dụng xe mô tô vào mục đích phạm tội và trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu đen, bên trong có gắn thẻ sim số 035.284.xxxxx là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Tịch thu, tiêu hủy chất ma túy Heroine có khối lượng 3,4299 gam (mẫu vật hoàn lại sau giám định) là vật chứng của vụ án.

(Có đặc điểm như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 05-9-2022 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đắk R’Lấp và Cơ quan CSĐT Công an huyện C).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Giàng A V phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 54/2022/HS-ST

Số hiệu:54/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk R'Lấp - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về