Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 54/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 54/2022/HS-ST NGÀY 19/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyên Yên Châu, tỉnh Sơn La xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 59/2022/TLST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo: Lò Văn Đ, sinh năm 1991, tại huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La Nơi cư trú: Bản N, xã C, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Lò Văn X và bà Tòng Thị L; bị cáo có vợ và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân:

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/5/2022 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Chị Lò Thị T, sinh năm 1996 Nơi cư trú: Bản N, xã C, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 00 ngày 19/5/2022 tại bản Chiềng Sàng 2, xã Chiềng Sàng, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La Tổ công tác Công an huyện Yên Châu phát hiện bắt quả tang Lò Văn Đ đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: 01 cục bột màu trắng được gói bằng 01 mảnh giấy một mặt màu trắng một mặt màu vàng được đựng trong 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng do Đ tự giác lấy trong túi áo ngực trước bên phải đang mặc trên người ra giao nộp; 01 xe máy (loại xe tự chế) không có vỏ, xe được sơn màu đen, không BKS, xe đã cũ nát. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật.

Ngày 19/5/2022 Cơ quan CSĐT- Công an huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La phối hợp với Phòng PC 09 – Công an tỉnh Sơn La tiến hành cân tịnh, xác định khối lượng số ma túy thu giữ của Lò Văn Đ. Dùng cân điện tử cân tách bì toàn bộ cục bột màu trắng thu giữ của bị cáo có khối lượng 0,3g, ký hiệu A gửi trưng cầu giám định.

Tại bản Kết luận giám định, số: 878/KLMT ngày 20/5/2022 của Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu A là ma túy; Loại Heroine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là A = 0,3g; Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,3 gam; loại Heroine”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lò Văn Đ khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 19/5/2022 Đ mang theo số tiền 50.000 đồng một mình điều khiển xe máy của gia đình đi từ nhà tại bản N, xã C, huyện Mai Sơn đến khu nương thuộc bản Chiềng Sàng 2, xã Chiềng Sàng, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La với mục đích xem nương để thầu lại. Tại ngoài đường mòn thuộc khu nương bản Chiềng Sàng 2, xã Chiềng Sàng, huyện Yên Châu, Đ gặp một người đàn ông dân tộc Thái (không biết tên, tuổi địa chỉ) hỏi Đ có muốn mua Heroine không? Đ nói, nếu có thì bán cho Đ 50.000 đồng để Đ mang về sử dụng. Người đàn ông dân tộc Thái đồng ý rồi đưa cho Đ 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng và bảo Đ bên trong vỏ bao thuốc có Heroine. Đ nhận lấy bao thuốc lá Thăng Long đồng thời đưa cho người đàn ông dân tộc Thái 50.000 đồng. Sau đó, Đ cất giấu vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên trong có Heroine vừa mua được vào trong túi áo ngực phía trước bên phải đang mặc trên người rồi điều khiển xe máy quay về theo đường cũ. Khi Đ đi được khoảng 500m thuộc địa phận bản chiềng Sàng 2, xã Chiềng Sàng, huyện Yên Châu thì bị tổ Công tác Công an huyện Yên Châu phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng như đã nêu ở trên.

Tại bản cáo trạng số 48/CT-VKSYC ngày 31 tháng 8 năm 2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Yên Châu để xét xử đối với bị cáo Lò Văn Đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lò Văn Đ từ 18 tháng đến 26 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án, đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu tiêu hủy 01 phong bì giấy niêm phong mặt trước ghi: “ Vật chứng vụ: Lò Văn Đ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy ngày 19/5/2022 tại bản Chiềng Sàng 2, Chiềng Sàng, Yên Châu, Sơn La. Niêm phong hồi 15 giờ 30 phút, ngày 19 tháng 5 năm 2022. tại Phòng PC09 Công an tỉnh Sơn La. Gồm có:

01 (Một) phong bì niêm phong ban đầu, 01 (Một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng đựng ma túy ban đầu, 01 (Một) mảnh giấy bạc một mặt màu trắng, một mặt màu vàng ban đầu”. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 xe máy (loại xe tự chế) không có vỏ, xe được sơn màu đen, không BKS, xe đã cũ nát.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 buộc bị cáo phải chịu án phí 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nhất trí như lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, không có ý kiến tranh luận gì thêm.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát, không có yêu cầu bị cáo phải bồi thường trách nhiệm dân sự.

Lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, có thái độ ăn năn, hối cải về hành vi đã thực hiện mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật và không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

2 Về hành vi và trách nhiệm hình sự của bị cáo: Tại phiên toà bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Châu. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc bị cáo đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; vật chứng đã thu giữ; biên bản mở niêm phong vật chứng, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong lại vật chứng; kết luận giám định và lời khai của người chứng kiên sư viêc.

Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận:

Ngày 19 tháng 5 năm 2022, bị cáo Đ đã mua trái phép 0,3 gam Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân với giá 50.000đồng. Trên đường về nhà thì bị tổ công tác Công an huyện Yên Châu phát hiện bắt giữ. Hành vi cất dấu 0,3 gam Heroine của bị cáo Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự có mức phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Việc Viện kiểm sát truy tố bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ. Tòa án đưa vụ án ra xét xử bị cáo Lò Văn Đ là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi mà bị cáo đã thực hiện

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tới chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội.

Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xét về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng quy đinh tai Điêu 52 Bô luât hinh sự.

Xét về nhân thân bị cáo: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Để trừng trị đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, cũng như công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới đảm bảo cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Bị cáo đang bị tạm giam cần tiếp tục tạm giam theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Thời gian tạm giam được tính vào thời gian chấp hành án.

[5] Vê hinh phat bô sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nghiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa thấy rằng bị cáo là người nghiện ma túy, thu nhập không ổn định, cá nhân không có tài sản có giá trị lớn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với 01 phong bì đã niêm phong, bên trong gồm có: “01 (Một) phong bì niêm phong ban đầu, 01 (Một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, 01 (Một) mảnh giấy bạc một mặt màu trắng, một mặt màu vàng”. Xét thấy đây là những vật không có giá trị sử dụng, cần tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đối với 01 xe máy (loại xe tự chế) không có vỏ, xe được sơn màu đen, không BKS, xe đã cũ nát là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, xét thấy chiếc xe máy này không có nguồn gốc rõ ràng, không đảm bảo an toàn khi tham gia giao thông do đó cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[7] Về các vấn đề khác: Đối với người đã trực tiếp bán ma túy cho bị cáo, HĐXX xét thấy hành vi mua bán đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải bị xử lý hình sự, nhưng quá trình điều tra không xác định được đối tượng nên không có căn cứ để xử lý ở vụ án này, đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý ở vụ án khác.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lò Thị T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Lò Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Lò Văn Đ 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/5/2022 là ngày bắt tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo 2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì giấy niêm phong mặt trước ghi: “Vật chứng vụ: Lò Văn Đ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy ngày 19/5/2022 tại bản Chiềng Sàng 2, Chiềng Sàng, Yên Châu, Sơn La. Niêm phong hồi 15 giờ 30 phút, ngày 19 tháng 5 năm 2022. tại Phòng PC09 Công an tỉnh Sơn La. Bên trong gồm có: 01 (Một) phong bì niêm phong ban đầu, 01 (Một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng đựng ma túy ban đầu, 01 (Một) mảnh giấy bạc một mặt màu trắng, một mặt màu vàng ban đầu”. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 xe máy (loại xe tự chế) không có vỏ, xe được sơn màu đen, không BKS, xe đã cũ nát.

Vật chứng nêu trên được mô tả theo biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 15/9/2022 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Châu và Công an huyện Yên Châu 3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 buộc bị cáo Lò Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm Báo cho bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ tuyên án sơ thẩm (ngày 19/9/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 54/2022/HS-ST

Số hiệu:54/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về