Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 54/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LỘC, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 54/2021/HS-ST NGÀY 21/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21/9/2021, tại Phòng xét xử, Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự đã thụ lý số 41/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2021/QĐXXST-HS ngày 10/9/2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn D, sinh năm: 1993 tại xã TK, huyện GL, tỉnh Hải Dương; Nơi cư trú: Thôn ĐT, xã TK, huyện GL, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1974; có vợ là Đặng Thị T1, sinh năm 1997 và 01 con sinh năm 2015; Tiền sự: Chưa; Tiền án: Bản án số 106/2017/HSST ngày 24/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc xử phạt D 18 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy (chấp hành xong án phạt tù ngày 07/02/2019 - Chưa được xóa), Bản án số 21/2020/HSST ngày 24/4/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xử phạt D 08 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản (chấp hành xong án phạt tù ngày 28/8/2020 - chưa được xóa); Nhân thân: Ngày 16/5/2017, Công an huyện Gia Lộc ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 66/QĐ-XPHC đối với Nguyễn Văn D về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (Ngày 29/5/2017 D chấp hành xong quyết định - đã được xóa), Ngày 30/9/2019, Công an thị trấn Gia Lộc, huyện Gia Lộc ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 18/QĐ-XPHC đối với Nguyễn Văn D về hành vi trộm cắp tài sản (ngày 08/11/2019 D chấp hành xong quyết định - đã được xóa).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/6/2021 đến ngày 13/6/2021, tạm giam từ ngày 13/6/2021 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt.

- Người làm chứng: Ông Phùng Văn C, sinh năm 1963; Địa chỉ: ĐĐ, xã ĐT1, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn D là người sử dụng ma túy, loại Heroine từ năm 2013. Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 10/6/2021, D đi từ nhà ra khu vực đầu thôn ĐT, xã TK, huyện GL rồi đi nhờ xe máy của người đi đường đến khu vực cầu TT thuộc địa phận thôn ĐĐ, xã ĐT1, huyện GL, mục đích tìm mua Heroine về sử dụng. Khi đến nơi, D đi bộ vào đường thôn ĐĐ thì gặp một người đàn ông không quen biết, không rõ tên, tuổi, địa chỉ. D hỏi người đàn ông chỗ bán ma túy thì người này hỏi lại D mua bao nhiêu tiền. D nói có 400.000 đồng. Người đàn ông lấy trong người ra đưa cho D 04 gói giấy thiếc màu bạc, bên trong mỗi gói đều có chứa chất bột dạng cục màu trắng là Heroine. D đưa cho người đàn ông số tiền 400.000 đồng. Sau khi bán ma túy cho D xong thì người đàn ông bỏ đi luôn. D cầm 04 gói Heroine trong lòng bàn tay trái rồi đi tìm nơi để sử dụng. Hồi 08 giờ cùng ngày, khi D đang đi bộ tại khu vực thôn ĐĐ, xã ĐT1, huyện Gia Lộc thì bị lực lượng Công an huyện Gia Lộc phối hợp với Công an xã ĐT1, huyện Gia Lộc phát hiện, bắt quả tang, thu giữ trong lòng bàn tay trái D đang cầm 04 gói giấy thiếc màu bạc, bên trong mỗi gói đều có chứa chất bột dạng cục màu trắng (Niêm phong ký hiệu M). D khai nhận là Heroine, mua về để sử dụng. Quá trình bắt giữ có anh Phùng Văn C, sinh năm 1963; trú tại thôn ĐĐ, xã ĐT1, huyện GL là người làm chứng.

Tại Kết luận giám định số 311/KLGĐ-PC09 ngày 11/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương đã kết luận:

Chất bột (dạng cục) mầu trắng niêm phong trong phong bì ký hiệu M, ghi thu của Nguyễn Văn D, gửi đến giám định tổng khối lượng là 0,525g (Không phẩy năm trăm hai mươi lăm gam) là ma túy, loại Heroine.

Cáo trạng số 42/CT-VKS ngày 26/7/2021, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương truy tố Nguyễn Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Gia Lộc giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX): Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự (BLHS); điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS); Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị xử phạt bị cáo từ 05 năm đến 05 năm 03 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/6/2021; Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn lại sau giám định và 04 mảnh giấy thiếc màu bạc; Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, xác định nội dung bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện Gia Lộc và quyết định truy tố, luận tội của VKSND huyện Gia Lộc đối với bị cáo là đúng và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện được xác định là hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định và một số tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Hồi 08 giờ 00 phút ngày 10/6/2021, tại khu vực thôn ĐĐ, xã ĐT1, huyện GL, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Văn D có hành vi cất giấu trái phép trong lòng bàn tay trái 04 gói Heroine có tổng khối lượng là 0,525gam thì bị phát hiện bắt quả tang. D cất giấu Heroine với mục đích để sử dụng. [3] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi cất giấu trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện để có ma túy sử dụng nhằm thỏa mãn cơn nghiện của bản thân, tổng khối lượng chất ma túy bị cáo cất giấu là 0,525gam, loại Heroin. Mặt khác, bị cáo đã 02 lần bị kết án, chưa được xóa án tích. Tại Bản án số 21/2020/HSST ngày 24/4/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xử phạt D 08 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, xác định bị cáo phạm với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm”. Bị cáo chưa được xóa án tích đối với bản án trên mà ngày 10/6/2021, bị cáo lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự, hành vi phạm tội của bị cáo được xác định là “tái phạm nguy hiểm”. Dó đó, VKSND huyện Gia Lộc truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm o khoản 2 Điều 249 BLHS là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây tác hại lớn về nhiều mặt, ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Ma túy nói chung trong đó Heroin nói riêng có tác hại rất lớn đến con người cũng như toàn xã hội. Nó không chỉ là nguyên nhân lây truyền căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS mà còn là nguồn phát sinh các loại vi phạm, tội phạm khác. Do đó cần thiết phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc mới đủ tác dụng giáo dục, trừng trị, răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Những hành vi phạm tội đã bị xét xử trước đó và chưa được xóa án tích của bị cáo được xem xét là tình tiết định khung hình phạt nên không được xem là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[5] Căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, HĐXX thấy bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị Tòa án xét xử nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn phạm tội. Do đó cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống chung của xã hội một thời gian thích hợp để Nhà nước giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng: Số ma túy được hoàn lại sau giám định là 0,463 gam và 04 mảnh giấy thiếc màu bạc là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành và là vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[8] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo khai mua của một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ tại khu vực thôn ĐĐ, xã ĐT1, huyện GL, tỉnh Hải Dương, quá trình điều tra không xác định được người này là ai nên không có căn cứ xử lý. Do đó, HĐXX không xem xét.

[9] Về án phí: Bị cáo bị kết án là có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, các Điều 135, Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 05 (Năm) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/6/2021.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 0,463 gam Heroin được hoàn lại sau giám định và 04 mảnh giấy thiếc màu bạc được đựng trong phong bì thư dán kín niêm phong số 311/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Hải Dương gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lộc (Đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Gia Lộc và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lộc ngày 27/7/2021).

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn D phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

318
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 54/2021/HS-ST

Số hiệu:54/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lộc - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về