Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 52/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM TÂN, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 52/2021/HS-ST NGÀY 17/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 55/2021/TLST-HS ngày 01/9/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2021/QĐXXST-HS ngày 06/9/2021, đối với bị cáo:

LÊ VĂN A, (Tên gọi khác: Bờm), sinh năm 2000 tại Tỉnh T; HKTT: Thôn T1, xã T1, huyện H, tỉnh B;

Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Lê Văn Th (chết) và bà Lê Thị Th1;

Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con út; Vợ, con: Chưa có;

Tiền sự: Không; Tiền án: Không;

Bị cáo bị bắt ngày 11/6/2021, bị tạm giữ từ ngày 11/6/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hàm Tân. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Văn A là đối tượng nghiện ma túy, khoảng 10 giờ 00 phút ngày 10/6/2021 A gọi điện thoại cho Chệt (không rõ tên tuổi, nhân thân, lai lịch) để mua ma túy, Chệt đồng ý và hẹn A đến cầu S thuộc xã B, huyện X, tỉnh B để lấy. Sau đó, Lê Văn A điều khiển xe mô tô 86B5-xxxxx đến điểm hẹn, gặp một người đàn ông đeo khẩu trang đến đưa cho A một gói nylon được hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng, A đưa cho người này số tiền 500.000đ. Sau đó A về nhà mình cất giấu số ma túy trên. Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 10/6/2021, thấy tiệm internet đã ít khách nên A lấy dụng cụ sử dụng ma túy cùng số ma túy đã mua ra ngồi trước thềm nhà của tiệm intermet lấy một ít đổ vào khay sử dụng. Số còn lại A chia nhỏ bỏ vào 02 gói nylon. Đến khoảng 01 giờ 00 phút ngày 11/6/2021, Lê Văn A bị tổ công tác Đồn biên phòng T phối hợp với Công an xã T tuần tra phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Kết luận giám định số 758/KLGĐ-PC09 ngày 14/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Thuận xác định:

- 02 gói nylon không màu được hàn kín, bên trong chứa tinh thể màu trắng được ký hiệu là M: Có khối lượng là 0,4173gam, là Methamphetamine.

Vật chứng vụ án thu giữ gồm có:

- 0,4173gam Methamphetamine, hiện còn 0,2517 gam (Do lấy mẫu giám định) cùng 02 gói nylon đã cắt lấy mẫu.

- 01 chai nhựa.

- 01 nỏ thủy tinh.

Với nội dung như trên, Cáo trạng số 56/CT-VKS ngày 26/8/2021 của VKSND huyện Hàm Tân đã truy tố bị cáo Lê Văn A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của VKSND huyện Hàm Tân đã truy tố và thống nhất với các điều khoản mà VKSND huyện Hàm Tân đã viện dẫn trong Cáo trạng.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Hàm Tân giữ quyền công tố luận tội và tranh luận đã phân tích hành vi phạm tội của bị cáo. Đề nghị HĐXX tuyên bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như nội dung Cáo trạng, đồng thời xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ khi quyết định mức hình phạt đối với bị cáo. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Văn A từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị HĐXX tuyên tịch thu tiêu hủy 0,2517 gam Methamphetamine cùng 02 gói nylon đã cắt lấy mẫu, 01 chai nhựa; 01 nỏ thủy tinh.

* Ý kiến của bị cáo: Bị cáo đồng ý với nội dung và tội danh mà Cáo trạng của VKSND huyện Hàm Tân đã truy tố, đồng thời xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử.

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan CSĐT Công an huyện Hàm Tân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến, hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai và các tài liệu chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án, đã có đủ cơ sở xác định:

Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 10/6/2021 Lê Văn A đến khu vực cầu S thuộc xã B, huyện X, tỉnh B gặp một người tên Chệt mua 500.000đ ma túy. Sau khi mua được ma túy, A mang về nhà cất giấu. Đến 22 giờ 00 phút ngày 10/6/2021 A lấy một ít ma túy đổ vào dụng cụ sử dụng ma túy để sử dụng, số còn lại A chia nhỏ bỏ vào 02 gói nylon, đến khoảng 01 giờ 00 phút ngày 11/6/2021 thì bị tổ công tác Đồn biên phòng T và Công an xã T tuần tra phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại các biên bản ghi lời khai của bị cáo; biên bản hỏi cung; lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều thống nhất hành vi của bị cáo đúng như cáo trạng đã nêu.

Tại Kết luận giám định số 758/KLGĐ-PC09 ngày 14/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Thuận xác định: 02 gói nylon không màu được hàn kín, bên trong chứa tinh thể màu trắng được ký hiệu là M: Có khối lượng là 0,4173gam, là Methamphetamine.

Bị cáo A tàng trữ trái phép 0,4173gam Methamphetamine để sử dụng, không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo xâm phạm khách thể được Luật Hình sự bảo vệ là chế độ quản lý của Nhà nước về chất Ma túy. Bị cáo A là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Như vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất Ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Do vậy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo biết rõ ma tuý là hiểm họa của con người và xã hội, tệ nạn ma túy không những xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, mà còn là nguyên nhân sản sinh ra nhiều loại tội phạm khác. Mặc dù nhận thức rõ điều này, nhưng để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân, bị cáo Anh đã bất chấp hậu quả, bất chấp pháp luật, tàng trữ ma túy để sử dụng. Vì vậy, cần phải dành cho bị cáo mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện để răn đe đối với bị cáo cũng như thông qua đó phòng ngừa tội phạm chung, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có thời gian cai nghiện ma túy, cũng như rèn luyện, tu dưỡng bản thân trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi thực hiện hành vi phạm tội cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Đối với đối tượng tên Chệt, hiện không xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Hàm Tân không xem xét xử lý trong vụ án này là phù hợp.

[7] Về vật chứng vụ án: Đối với 0,2517 gam Methamphetamine là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy. Đối với 02 gói nylon đã cắt lấy mẫu, 01 chai nhựa; 01 nỏ thủy tinh, đây là vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn A 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 11/6/2021.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng: Khoản 1 Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự;

Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tuyên tịch thu tiêu hủy: 0,2517 gam Methamphetamine cùng 02 gói nylon đã cắt lấy mẫu. Tất cả được niêm phong trong phong bì số 758 có chữ ký của Giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 chai nhựa; 01 nỏ thủy tinh.

Tất cả Vật chứng hiện đang được Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Tân quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/9/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Tân với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Tân.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Văn A phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai, báo cho bị cáo biết quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 52/2021/HS-ST

Số hiệu:52/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Tân - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về