Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 51/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 51/2022/HS-ST NGÀY 15/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 15 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 20/2022/TLST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 60/2022/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

NGUYN THANH T (tên gọi khác: H), sinh năm 1993 tại tỉnh Bình Thuận. Nơi cư trú: khu phố 8, phường Đ, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn A (sinh năm 1969) và bà Nguyễn B (sinh năm 1969); vợ, con: chưa có; tiền án: không.

Tiền sự: Ngày 10/10/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố P ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 12 tháng, kể từ ngày 26/10/2018, chấp hành xong ngày 12/9/2019.

Nhân thân:

+ Ngày 27/7/2017, bị Công an phường Đ ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

+ Ngày 22/5/2018, bị Ủy ban nhân dân phường Đ ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy với thời hạn 06 tháng, đến ngày 17/9/2018 Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Đ ban hành quyết định chấm dứt việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

Bị cáo đang tại ngoại tại địa phương và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 21 giờ 30 phút ngày 12/8/2021, Nguyễn Thanh T đạp xe đạp từ nhà đến đường Q thuộc khu phố 4, phường L, thành phố P dùng điện thoại có gắn sim số 0971.543.302 gọi cho một người tên thường gọi là Đ (không rõ nhân thân) qua số điện thoại 0384.640.306 để hỏi mua ma túy với giá 300.000 đồng thì Đỏ đồng ý. Khoảng vài phút sau, Đ đến và giao cho T 01 gói nylon không màu, hàn kín bốn đầu, kích thước khoảng (3,5x4)cm, bên trong gói nylon có chứa một đoạn ống nhựa màu vàng trắng, bên trong đoạn ống nhựa có chứa ma túy đá và nhận lại 300.000 đồng từ T.

Sau khi mua được ma túy, T bỏ vào ví da màu đen rồi cất giấu vào túi quần phía trước bên trái, sau đó đạp xe xuống Cảng cá thuộc phường N, thành phố P để chở một người bạn cùng khu phố về nhà. Đến khoảng 21 giờ 40 phút, khi T đi đến khu vực bãi xe Trưng Trắc thuộc khu phố 2, phường Đ, thành phố P thì bị lực lượng tuần tra Công an phường Đ yêu cầu dừng xe kiểm tra hành chính do T có biểu hiện nghi vấn. Qua kiểm tra, lực lượng Công an phường Đ phát hiện trong túi quần phía trước bên trái của T đang mặc có một ví da màu đen, bên trong có 01 gói nylon, bên trong có chứa tinh thể màu trắng, T khai nhận là ma túy đá T vừa mua được để sử dụng nên Công an phường Đ đã đưa T về trụ sở Công an phường để làm rõ hành vi phạm tội.

Vật chứng của vụ án:

- 01 (một) gói nylon không màu, được hàn kín bốn đầu, kích thước khoảng (04x3,5) cm, bên trong gói nylon có chứa 01 đoạn ống nhựa màu vàng trắng có chứa tinh thể màu trắng (thu giữ trong ví màu đen mà T để trong túi quần trước bên trái, ký hiệu là mẫu M khi giám định).

- 01 (một) chiếc điện thoại Masstel màu đen gắn sim số 0971.543.302, số IMEI 1: 357620049110731, số IMEI 2: 357620049110730.

* Tại Bản kết luận giám định số 1137/KLGĐ-PC09 ngày 24/9/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

- Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,2558 gam là Methamphetamine (bút lục số 18).

- Đối với 01 (một) chiếc điện thoại Masstel màu đen gắn sim số 0971.543.302, số IMEI 1: 357620049110731, số IMEI 2: 357620049110730, là công cụ T dùng để liên lạc mua ma túy vào ngày 12/8/2021 và số ma túy còn lại sau giám định, Viện kiểm sát đã ra quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P bảo quản chờ xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 19/CT-VKSPT-HS ngày 11/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P quyết định, truy tố bị cáo: Nguyễn Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P phát biểu quan điểm xử lý về vụ án như sau:

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Nguyễn Thanh T, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Nguyễn Thanh T từ 18 (mười tám) tháng tù đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng theo quy định.

Đối với đối tượng tên Đ đã bán ma túy cho T, do không xác định được nhân thân nên không có căn cứ làm rõ để xử lý.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thanh T xác định Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng và không tranh luận gì, thống nhất với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát và lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, theo hồ sơ đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự và thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thanh T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo T thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét tại phiên tòa nên có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 21 giờ 40 phút ngày 12/8/2021, tại khu vực bãi xe Trưng Trắc thuộc khu phố 2, phường Đ, thành phố P, Nguyễn Thanh T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,2558 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị lực lượng tuần tra Công an phường Đ, thành phố P kiểm tra và phát hiện bắt quả tang.

Bị cáo T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được tác hại nguy hiểm của ma túy đối với người sử dụng và nhận thức được việc tàng trữ, sử dụng chất ma túy là trái pháp luật, nhưng do đua đòi ăn chơi và thiếu ý thức chấp hành pháp luật nên bị cáo đã đi mua ma túy để phục vụ nhu cầu bản thân sử dụng. Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý, đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Cho nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố đối với bị cáo T là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của nhà nước về chất ma túy, làm phức tạp tình hình an ninh trật tự ở địa phương, là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến việc thực hiện nhiều loại tội phạm khác. Ngoài ra, bị cáo có 01 tiền sự bị Tòa án áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, 01 lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và 01 lần bị cơ quan nhà nước áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, nhưng bị cáo không chú tâm cai nghiện mà còn tiếp tục mua ma túy về sử dụng, thể hiện bản chất xem thường pháp luật. Chính vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo để giáo dục bị cáo ý thức tuân thủ pháp luật, ngăn ngừa phạm tội mới; đồng thời giáo dục những người khác biết tôn trọng pháp luật, tích cực tham gia phòng, chống tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nhưng có nhân thân xấu; về tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên cần áp dụng khi lượng hình đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) gói nylon không màu đã cắt lấy mẫu và 01 (một) đoạn ống nhựa màu vàng trắng cùng 0,2198 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1137 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị nên tịch thu, tiêu hủy;

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Masstel màu đen gắn sim số 0971.543.302, số IMEI 1: 357620049110731, số IMEI 2: 357620049110730 là phương tiện liên lạc bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

[6] Các vấn đề khác: Đối với đối tượng có tên thường gọi là Đ bị cáo đã mua ma túy, Cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được nhân thân, địa chỉ nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Thanh T, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Thanh T 18 (mười tám) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt thi hành án.

2. Xử lý vật chứng: căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) gói nylon không màu đã cắt lấy mẫu và 01 (một) đoạn ống nhựa màu vàng trắng cùng 0,2198 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1137 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận;

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Masstel màu đen gắn sim số 0971.543.302, số IMEI 1: 357620049110731, số IMEI 2: 357620049110730.

(Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 61 ngày 15/3/2022).

3. Về án phí: căn cứ vào khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Thanh T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: căn cứ Điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (15/4/2022)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 51/2022/HS-ST

Số hiệu:51/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về