Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 51/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC KẠN – TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 51/2022/HS-ST NGÀY 19/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19/7/2022, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Nông Thượng, thành phố Bắc Kạn, Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 51/2022/HSST ngày 16/6/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/QĐXXST- HS, ngày 07/7/2022, đối với bị cáo:

Đặng Văn T, sinh ngày 01/5/1975, tại Bắc Kạn;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn N, xã D, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 6/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không ; quốc tịch: Việt nam; con ông Đặng Trần T (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ; có vợ là Nguyễn Thị N, sinh năm 1982 và 01 con sinh năm 1997; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2001 bị TAND huyện C, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, 24 tháng thử thách về tội “Trộm cắp tài sản”; bị bắt tạm giữ từ ngày 14/4/2022 đến ngày 22/4/2022 được tại ngoại - Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1982;

Trú tại: Thôn N, xã D, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn – Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 35 phút ngày 14/4/2022, tại tổ B, phường H, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an tỉnh Bắc Kạn bắt quả tang Đặng Văn T về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý, thu giữ tại túi quần ngố đằng trước bên trái Đặng Văn T đang mặc có 01 (một) gói được gói bằng giấy vệ sinh màu trắng, bên trong có 03 (ba) gói nhỏ có chứa chất bột màu trắng, qua cân xác định số chất bột màu trắng có tổng khối lượng là 0,208g (Không phẩy hai không tám gam), sau khi cân niêm phong toàn bộ chất bột vào phong bì ký hiệu T4 trưng cầu giám định. Ngoài ra còn tạm giữ của Đặng Văn T 01 (một) điện thoại di động Samsung màu xanh đen đã qua sử dụng, bên trong có lắp 02 sim số thuê bao 0869.787.2xx và 0978.649.2xx và 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA biển kiểm soát 97B1 - 474.xx đã qua sử dụng cùng một chìa khóa xe.

Tại Cơ quan điều tra, Đặng Văn T khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 14/4/2022, T một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 97B1 – 474.xx đi từ nhà tại Thôn N, xã D, thành phố Bắc Kạn đến khu vực gần cầu P thuộc tổ x, phường N, thành phố Bắc Kạn với mục đích đi mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây, T gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi, đeo khẩu trang, không rõ tên tuổi và địa chỉ cụ thể. T đã hỏi mua ma túy với người đàn ông này với số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng). Người đàn ông nhận tiền rồi đưa cho T 03 (ba) gói ma túy loại Heroine đều được gói bằng giấy một mặt màu trắng, một mặt màu vàng và được gói chung bên ngoài bằng giấy vệ sinh màu trắng. Sau khi mua được ma túy T cầm 03 (ba) gói ma túy cất giấu trong túi quần ngố đằng trước bên trái đang mặc và đi đến khu vực tổ B, phường H, thành phố Bắc Kạn để sử dụng ma túy, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang.

Tại kết luận giám định số 37/KTHS-MT, ngày 23/4/2022 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu T4 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 0,208g (Không phẩy hai không tám gam).

Với các hành vi nêu trên, tại bản cáo trạng số 28/CT-VKSNDTP, ngày 13/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Đặng Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Điều luật có nội dung:

1, Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù một năm đến năm năm.

…..

c) Heroine…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn vẫn giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đặng Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38/BLHS, xử phạt bị cáo Đặng Văn T từ 13 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 14/4/2022 đến ngày 22/4/2022.

Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47/BLHS và Điều 106/BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì ký hiệu T72 và T3 còn nguyên dấu niêm phong. Tạm giữ của bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh đen đã qua sử dụng, bên trong có lắp 02 sim số thuê bao 0869.787.2xx và 0978.649.2xx để đảm bảo thi hành án. Trả lại cho bà Nguyễn Thị N 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA biển kiểm soát 97B1 - 474.xx đã qua sử dụng cùng một chìa khóa xe.

Về án phí: Đề nghị áp dụng Điều 136/BLTTHS và Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Quá trình tranh luận bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Kết thúc phần tranh luận bị cáo nói lời sau cùng là xin Hội đồng xét xử cho hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập:

Các hành vi, quyết định tố tụng và các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 14/4/2022, Đặng Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ của T 0,208g (Không phấy hai không tám gam) ma túy loại Heroine với mục đích để bản thân sử dụng, không nhằm mục đích khác. Nên hành vi của Đặng Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Đặng Văn T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Tổng hợp các chứng cứ lại, đánh giá diễn biến khách quan của vụ án thấy việc truy tố, xét xử bị cáo Đặng Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét tính chất hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về chế độ quản lý các chất ma túy; gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội tại địa phương. Vì vậy cần phải xử lý bằng pháp luật hình sự nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2001 bị TAND huyện C, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, 24 tháng thử thách về tội “trộm cắp tài sản”, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng rèn luyện bản thân mà còn tiếp tục phạm tội, vì vậy cần phải có một mức án nghiêm khắc mới có thể cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào; được hưởng tình tiết giảm nhẹ là “Thành khẩn khai báo” được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Mặt khác bị cáo có mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị Đ được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất.

Bởi vậy khi lượng hình được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51/BLHS.

[4] Hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản và nguồn thu nhập ổn định nào, khi áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền thì không có tính khả thi. Vì vậy không áp dụng đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: - Tịch thu tiêu hủy những vật không có giá trị sử dụng gồm: 02 phong bì ký hiệu T72 và T3 còn nguyên dấu niêm phong.

- Đối với 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE màu đỏ, đen, BKS 97B1- 474.xx. Qua điều tra xác định đây là tài sản riêng của bà Nguyễn Thị N (là vợ của bị cáo Đặng Văn T) mua trả góp, thế chấp tại Công ty Tài chính TNHH MTV Ngân hàng VNTV có địa chỉ tại: Tầng x, tòa nhà R, P. xx, Quận y, TP HCM từ ngày 01/01/2022 đến ngày 16/10/2022 mới trả xong, Đặng Văn T không có công sức đóng góp gì đối với chiếc xe trên. Việc bị cáo T sử dụng chiếc xe mô tô trên để thực hiện hành vi phạm tội thì bà N không biết. Vì vậy cần trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung vỏ màu đỏ đen, đã qua sử dụng, bên trong điện thoại có lắp 02 (hai) sim điện thoại Viettel là của bị cáo, cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án. (Tình trạng vật chứng như biên bản bàn giao giữa Công an và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn).

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[7] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Đặng Văn T, do bị cáo không biết họ tên và địa chỉ cụ thể của người này, nên Cơ quan điều tra không đủ cơ sở để điều tra, xử lý.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1, Tuyên bố: Bị cáo Đặng Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38/ BLHS.

+ Xử phạt: Bị cáo Đặng Văn T 13 (Mười ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt thi hành án. Được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 14/4/2022 đến ngày 22/4/2022.

2,Về vật chứng:

- Áp dụng Điều 47/Bộ luật Hình sự 2015 và Điều 106/Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

+ Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì ký hiệu T72 và T3 còn nguyên dấu niêm phong.

+ Tạm giữ của bị cáo Đặng Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh đen đã qua sử dụng, có số IMEI 1: 3580824756405xx và IMEI 2:

3591396056405xx; bên trong có lắp 02 sim số thuê bao 0869.787.2xx và 0978.649.2xx để đảm bảo thi hành án.

+ Trả lại cho bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1982, trú tại Thôn N, xã D, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE màu đỏ, đen, đã qua sử dụng BKS 97B1 - 474.xx, có số khung: RLHJA3221EY0405xx, số máy: JA32E00405xx cùng một chìa khóa xe.

(Tình trạng vật chứng như biên bản bàn giao giữa Công an và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn ngày 30/6/2022).

3, Về án phí:

- Áp dụng Điều 136/BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

+ Buộc bị cáo Đặng Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

4, Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 51/2022/HS-ST

Số hiệu:51/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về